Thứ Hai, 11 tháng 2, 2008

ĐẦU NĂM KHAI BÚT

Chủ đề của đường hoa năm nay là HƯỚNG VỀ BIỂN ĐÔNG. Ý nghĩa như thế nào thì ngầm hiểu.

Một trong những điểm nổi bật năm nay là báo Xuân không còn những bài nặng về chính trị sáo rỗng nữa, mà đã trở lại với ý nghĩa báo Xuân mà dân Sài Gòn đã từng biết. Những người viết bài chắc chắn là "có tầm cỡ" nhưng nội dung viết rất sâu lắng, chứng tỏ họ đã viết ra những suy nghĩ tự đáy lòng.

Dưới đây là một bài rất cảm động trong báo TIẾP THỊ. Tôi từng có mơ ước là đi về miền Bắc, thăm những địa danh như Bạch Đằng, Vạn kiếp, Chi Lăng, để sống lại những giây phút hào hùng của dân tộc. Đọc bài này, tôi lại nhớ lại những giờ giảng sử cực kỳ lôi cuốn của thời trung học. Những vị thầy này vốn là người Bắc, đã mô tả thực sự khung cảnh những vùng ấy. Qua lời mô tả, tôi cứ mơ màng về những trận đánh long trời lở đất ở đó, những hình ảnh oai hùng, quân reo cùng trống trận....

Các bạn cùng xem.

Rơm rạ ơi ta trở về đây…

Lâu lắm rồi, dễ đến nửa thế kỷ có lẻ, tôi mới lại được ngồi bệt trên rệ cỏ bờ đê sông Mạ mà ngắm cánh đồng quê ngoại tôi đang ngan ngát mùi thơm rơm rạ mới. Con đường đồng cong cong như chiếc đòn gánh tre, mới ngày nào bà con dân làng tôi tất bật qua đây, đi cày, đi bừa, gánh mạ xanh vụ cấy, gánh lúa vàng mùa gặt… Làng quê ngoại tôi hồi đó thuộc loại làng nghèo, chỉ có vài căn nhà xây lợp ngói, vậy mà cũng có đủ lệ bộ trang nghiêm những đình, chùa, nghè, miếu, văn chỉ… như tất cả các làng cổ khác. Con đường làng lát đá phiến hẳn hoi, người qua lại gặp nhau đều trên kính, dưới nhường, chào hỏi lễ độ. (Tôi rất thích câu thơ của Lê Đình Cánh, bạn đồng hương Thanh Hoá, tả bà mẹ từ làng ra thành phố: “Lên thang chẳng dám bước dài/ vào khu tập thể gặp ai cũng chào”). Cảnh vật đồng quê vốn luân hồi bình lặng bỗng rừng rực hiện lên trong tâm trí tôi như ngọn lửa đốt đồng.

Đình Gia Miêu ngoại trang, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nơi phát tích nhà Nguyễn. Ảnh: Nguyễn Duy (chụp năm 1997)

Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2008

ĐẦU XUÂN KHAI BÚT

Get this widget | Track details | eSnips Social DNA

Chủ đề của đường hoa năm nay là HƯỚNG VỀ BIỂN ĐÔNG. Ý nghĩa như thế nào thì ngầm hiểu.

Một trong những điểm  nổi bật năm nay là báo Xuân không còn những bài nặng về chính trị sáo rỗng nữa, mà đã trở lại với ý nghĩa báo Xuân mà dân Sài Gòn đã từng biết. Những người viết bài chắc chắn là "có tầm cỡ" nhưng nội dung viết rất sâu lắng, chứng tỏ họ đã viết ra những suy nghĩ tự đáy lòng.

Dưới đây là một bài rất cảm động trong báo TIẾP THỊ. Tôi từng có mơ ước là đi về miền Bắc, thăm những địa danh như Bạch Đằng, Vạn kiếp, Chi Lăng, để sống lại những giây phút hào hùng của dân tộc. Đọc bài này, tôi lại nhớ lại những giờ giảng sử cực kỳ lôi cuốn của thời trung học. Những vị thầy này, như thầy Vũ Huy Chấn,  vốn là người Bắc, đã mô tả thực sự khung cảnh những vùng ấy mà quý thầy đã đi đến tận nơi. Qua lời mô tả, tôi cứ mơ màng về những trận đánh long trời lở đất ở đó, những hình ảnh oai hùng, quân reo cùng trống trận....

Các bạn cùng xem.

Rơm rạ ơi ta trở về đây…

Lâu lắm rồi, dễ đến nửa thế kỷ có lẻ, tôi mới lại được ngồi bệt trên rệ cỏ bờ đê sông Mạ mà ngắm cánh đồng quê ngoại tôi đang ngan ngát mùi thơm rơm rạ mới. Con đường đồng cong cong như chiếc đòn gánh tre, mới ngày nào bà con dân làng tôi tất bật qua đây, đi cày, đi bừa, gánh mạ xanh vụ cấy, gánh lúa vàng mùa gặt… Làng quê ngoại tôi hồi đó thuộc loại làng nghèo, chỉ có vài căn nhà xây lợp ngói, vậy mà cũng có đủ lệ bộ trang nghiêm những đình, chùa, nghè, miếu, văn chỉ… như tất cả các làng cổ khác. Con đường làng lát đá phiến hẳn hoi, người qua lại gặp nhau đều trên kính, dưới nhường, chào hỏi lễ độ. (Tôi rất thích câu thơ của Lê Đình Cánh, bạn đồng hương Thanh Hoá, tả bà mẹ từ làng ra thành phố: “Lên thang chẳng dám bước dài/ vào khu tập thể gặp ai cũng chào”). Cảnh vật đồng quê vốn luân hồi bình lặng bỗng rừng rực hiện lên trong tâm trí tôi như ngọn lửa đốt đồng.

Đình Gia Miêu ngoại trang, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nơi phát tích nhà Nguyễn. Ảnh: Nguyễn Duy (chụp năm 1997)

Rơm rạ ơi ta trở về đây
Ráng chiều cháy cái màu rơm rạ cháy
Đồng hí hoáy cố nhân đi cấy
Mông nứt đôi nhẫn nại chổng lên trời…
(Về đồng)

Là đây, đất “chôn rau cắt rốn” từng nuôi nấng tròn vẹn thời thiếu niên vĩnh cửu của tôi. Là đây, tuổi thơ tôi bát ngát cánh đồng/cỏ và lúa, và hoa hoang quả dại/ vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải/ bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua... Là đây, làng quê ngoại tôi vốn có tên nôm là làng Vũ, (thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung), gần một bến đò xưa có tên là Đò Lèn, nay là cầu Lèn.

Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về người mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa tôi làm sau này chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó:

…Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò… sung chát… đào chua…
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời me ru…
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Bà ngoại tôi dân quê mùa chính gốc, một chữ bẻ đôi cũng không biết, nhưng lạ thay, lại biết và thuộc lòng vô số những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, chuyện cổ tích, chuyện tiếu lâm, cả những truyện nôm khuyết danh như Thạch Sanh, Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Trê – Cóc… và đọc vanh vách một số đoạn cảm thương trong Truyện Kiều. Những đêm hè trời trong, gió mát, bà tôi thường trải manh chiếu cói trên mặt đê sông Mạ, cùng các cháu nằm ngắm trăng, kể chuyện “Hằng Nga”, chuyện “thằng cuội ngồi gốc cây đa/ để trâu ăn luá…”, chuyện ngụ ngôn nào đó, hoặc là đếm “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng… ”.

…Bao giờ cho tới tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn…
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Càng lớn lên tôi càng nghiệm ra rằng, bà là hiện thân của chính quê nhà, người đã ngâm tẩm tuổi thơ tôi trong suối nguồn ca dao, và phẩm chất ca dao đã ngấm vào tôi tự nhiên như thể di truyền.

***

Bà ngoại tôi sống chủ yếu bằng hai việc làm thường xuyên là bán chè xanh ở chợ Bình Lâm và kéo te (một loại vó nhỏ xíu chuyên dùng để bắt tép) tại cánh đồng Quan. Tôi thường lon ton chạy theo bà, cả đi kéo te và đi chợ. Những món quà chợ quê mà bà cho tôi hồi đó, nào có gì đâu, chỉ là quả ổi, quả thị thơm lừng, bắp ngô nướng, củ khoai lang luộc ngọt bùi, hiếm hoi một bát chiết yêu bánh đúc chan riêu cua màu mỡ… đã trở thành những miếng ngon tột đỉnh trong đời. Sung sướng tột cùng là được bà cho theo đi lễ chùa, lễ đền, xem lên đồng, nhập thánh…

Bà tôi nhà nghèo nhưng giàu lòng tin. Tin trời, Phật, tin thánh, thần. Tin cả ma, quỷ. Tôi cũng bị lây nhiễm nết cả tin của bà từ thuở nhỏ, hằng tin rằng trời phật là có thật. Thánh thần là có thật. Ma quỷ là có thật. “Ở hiền gặp lành” là chân lý có thật. Cái thế giới của người đã khuất mà bà tôi gọi là “cõi âm” cũng có thật. Thật và thiêng.

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm…
(Đò Lèn)

Một lần, chừng vài năm sau Cải cách ruộng đất, khoảng 1957 - 1958 gì đó, tiện đường đi lễ đền Sòng về, bà cho tôi theo lên thắp nhang đình Gia Miêu ngoại trang, cách làng tôi hơn mười cây số. Đi bộ. Ngày đó toàn đi bộ. Ngôi đình cổ to lắm, nằm trong một khu lăng tẩm, thành quách lớn lắm, lộng lẫy và tôn nghiêm lắm. Bà nói đây là quê nội của các đức vua và các ông hoàng bà chúa họ Nguyễn, đến nhà vua về cúng đình cũng phải xuống kiệu, đi bộ. Bà tôi chỉ biết đến vậy, và truyền dạy cho tôi chỉ có vậy, nhưng trong trí tưởng tượng của tôi thì ngôi đình này linh thiêng đến vô cùng vô tận, thờ tổ tiên của vua chúa kia mà. Đôi khi tôi còn thầm hãnh diện mình cũng cùng quê với vua chúa đấy chứ, biết đâu còn là họ hàng...

Bom Mỹ dội nhà bà tôi bay mất
Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
(Đò Lèn)

***

Lớn lên, tôi theo cha về quê nội, học trường cấp ba Lam Sơn trên tỉnh. Rồi chiến tranh. Đi lính… Hoà bình, tôi trở về thăm quê. Bà ngoại tôi không còn nữa. Ngôi nhà nhỏ nơi bà tôi ở, cũng là nơi tôi ra đời, không còn nữa. Chùa Trần, chùa Vũ không còn nữa. Cả đền thờ đức ngài Lý Thường Kiệt ở ngay làng bên cũng không còn nữa. Làng mạc quê ngoại tôi bị bom Mỹ phá tan tành.

Hỏi ra mới biết thêm rằng, phần lớn đình, chùa, đền, miếu đã bị phe ta phá trước cả bom đạn, từ ngày đang cao trào “toàn dân vào hợp tác xã” và “bài trừ mê tín dị đoan”, giống như ở làng quê nội tôi. Cuộc “tàn sát tâm linh” đó quả là một trận đòn chí mạng đánh vào lòng người.

Tấm ảnh đình Gia Miêu hoang tàn, kèm theo bài viết này, được chụp vào mùa thu năm 1997, lúc tôi cùng nhà văn Nguyễn Khải về đây thắp nhang. Anh Nguyễn Khải người gốc gác làng Bồng, huyện Vĩnh Lôc, cùng quê với chúa Trịnh Kiểm. Phủ Trịnh ở xã Vĩnh Hùng vẫn được dòng tộc Trịnh giữ gìn cẩn thận, hương lửa truyền đời. Còn đình Gia Miêu thì trống tuềnh trống toàng, cổng, cửa, tường vách đổ nát, mái ngói sạt lở, cột gỗ mốc meo, mục mọt nhiều chân cột. Tình cảnh thật đau xót.

Chúng tôi mang theo nén nhang thơm, nhưng trong ngôi đình không có bất cứ thứ gì để có thể cắm nhang được, chứng tỏ nơi này hoang phế đã lâu. Giữa hậu cung, một đống gạch ngói vỡ vung vãi. Chúng tôi xếp một chồng ngói rêu phong tượng trưng cho bàn thờ rồi cắm nhang lên đó, cúi lạy... Nhìn quanh, góc đình phơi mấy mẹt ớt đỏ. Chợt rùng mình khi thấy trên thân cây cột đình gian áp chái có hàng chữ bằng mực đen, giống một vế câu đối: AI BÁN BÈO VÀ ỐC TÔI MUA.

***

Rơm rạ ơi ta trở về đây
Xin cúi lạy vong linh làng mạc
Bà và mẹ hoá cánh cò cánh vạc
Ông và cha man mác kiếp trâu cày
(Về đồng)

Cứ lần theo sử liệu mà suy, còn có những ngôi đình cổ kính hơn hoặc to lớn hơn, nhưng hiếm có ngôi đình nào trên đất nước này mang sự tích kỳ vĩ như đình làng Gia Miêu ngoại trang.

Đầu tiên là nói về “long mạch”.

Đất Gia Miêu sinh Nguyễn Công Duẩn, công thần khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), được vua Lê Thái Tổ phong Thái bảo hoành công. Tiếp các đời con, cháu, chắt, chút (Nguyễn Đức Trung – Nguyên Văn Lang – Nguyễn Hoằng Dụ – Nguyễn Kim…) đều lần lượt làm đại thần trong triều.

Từ sau đời Lê Thánh Tông (1442 - 1497), nhà Hậu Lê suy yếu dần, đến đời Lê Chiêu Tông (khoảng 1516 - 1522) thì bị Mạc Đăng Dung tiếm quyền. An Thanh Hầu Nguyễn Kim (con Nguyễn Hoằng Dụ) dựng cờ phò Lê diệt Mạc, lập con vua Chiêu Tông là Lê Duy Ninh lên ngôi (Lê Trang Tông, 1533 - 1548) khởi đâu thời Lê Trung Hưng. Nguyễn Kim (1467 - 1545) được phong làm Thượng phụ thái sư hưng quốc công, mộ táng tại núi Thiên Tôn thuộc đất Gia Miêu, sau được suy tôn Triệu Tổ dòng họ Nguyễn Gia Miêu.

Nguyễn Kim có ba người con. Người con gái tên Ngọc Bảo, lấy Dực quận công Trịnh Kiểm, tức chúa Trịnh sau này. Người trai cả là Nguyễn Uông, bị Trịnh Kiểm sát hại. Người trai thứ là Đoan quận công Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), tương truyền theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, xin đi trấn thủ xứ Thuận Hoá, tháng mười năm Mậu Ngọ (1558). Từ đó mà có được đại nghiệp mở đất Đàng Trong (từ Thuận Hoá tới tận mũi Cà Mau như bây giờ), thu trọn giang sơn thành một nước Việt Nam thống nhất, trải qua chín đời chúa và mười ba đời vua Nguyễn.

Tiên đế triều Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh (1762 - 1819) lên ngôi năm 1802, niên hiệu Gia Long, đến 1804 cho xây khu tôn miếu Triệu Tường tại Gia Miêu ngoại trang. Thành Triệu Tường chu vi 182 trượng bao quanh, ngoài thành có hào nước, ngoài hào có hai lớp luỹ vây bọc. Trong thành có Nguyễn Miếu, một tập hợp nhiều miếu thờ tiên tổ họ Nguyễn. Miếu chính và Miếu trước lớn hơn cả, thờ Triệu Tổ Nguyễn Kim và Thái Tổ Nguyễn Hoàng… Khu tôn miếu Triệu Tường rất đẹp và tôn nghiêm, được ví với Thái Miếu trong đại nội Huế.

Ngay cạnh thành Triệu Tường, đình Gia Miêu được dựng năm Gia Long thứ 5 (1806), thờ đức Thái bảo hoành công Nguyễn Công Duẩn. Toà đại đình bảy gian này có sáu vì kèo, mỗi vì kèo đứng trên sáu cột lim, mỗi cột lớn hơn vòng tay ôm. Nghệ thuật chạm khắc gỗ nơi đây được coi là đẹp vào loại hàng đầu của kiến trúc đình làng thời bấy giờ.

***

Đại diện duy nhất của họ Nguyễn Gia Miêu tiếp chuyện nhà văn Nguyễn Khải và tôi hôm đó, ông Nguyễn Thái Bình, sáu mươi hai tuổi, nghề chuyên môn là gác ao cá. Ông thầu khoán cái ao đình để thả cá, nộp sản cho hợp tác xã. Ông cho cá ăn cỏ, ăn cám, ăn phân bò, phân lợn, băm thêm bèo và ốc. Bèo và ốc thì phải mua. Chính tay ông viết lên cột đình hàng chữ “Ai bán bèo và ốc tôi mua”, nắn nót rất lâu mới đẹp được như thế đấy, như thư pháp, như câu đối, ông khoe một cách thật thà.

Ông Bình say sưa kể về ngôi đình này, khu thành Triệu Tường kia, khi xưa đẹp và thiêng liêng là thế... Gần đây thôi, khoảng sau năm 1975, mới bị phá triệt để. Đình làng trống hoang thành chỗ trú cho trâu bò. Còn khu tôn miếu Triệu Tường thì bị san phẳng, làm trại chăn nuôi lợn. Hôm phá thành Triệu Tường, từ trong bức tường dày có rất nhiều rùa bò ra lổm ngổm. Thật lạ. Và khiếp sợ...

***

Sau lần về thắp nhang đình Gia Miêu năm 1997 ấy, tôi phóng to tấm ảnh vừa chụp được, chép bài thơ Về đồng lên đó, trưng bày trong “Triển lãm thơ Nguyễn Duy” tại Sài Gòn (tháng 12.1997), Hà Nội và Thanh Hoá (tháng 2 và 3.1998). Tôi trực tiếp thuyết minh về lai lịch tấm ảnh với rất đông người xem triển lãm, trong đó có nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đương kim Bộ trưởng Văn hoá thông tin Nguyễn Khoa Điềm, có cả các vị lãnh đạo cao nhất tỉnh Thanh Hoá lúc bấy giờ.

Năm 2000, tôi về lại Gia Miêu. Ngôi đình hoang tàn đã được trùng tu đàng hoàng bằng ngân sách Nhà nước. Mái lợp ngói kiểu cổ. Tường mới dày dặn, cửa gỗ then cài chắc chắn. Những cột đình bị mục được “vá víu” và sơn phết lại. Điện thờ trong hậu cung được xây mới hoàn toàn, có đèn sáng, có nhang khói. Cái cổng đình thì mới tinh tình tình, lại có cả hai cánh cổng sắt khoá bằng dây xích sắt to như xích neo tàu thuỷ…

Tết Đinh Hợi vừa rồi (2007), tôi lại về Gia Miêu, theo lời mời của bạn bè huyện Hà Trung quê ngoại, về dự lễ khánh thành lăng Nguyễn Kim trên núi Thiên Tôn. Dòng tộc Nguyễn ở Huế góp kinh phí. Dòng tộc Nguyễn tại quê góp một phần công. Đại diện dòng tộc Nguyễn từ nhiều nơi trong cả nước tụ về dâng hương lăng Triệu Tổ…

***

Nhà Nguyễn có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật hiển nhiên, vậy mà, không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị hạ thấp một cách oan ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính, bị xoá tên đường phố nhiều vua, chúa kiệt xuất? Tại sao?...

Tại sao?...

Nhiều ý nghĩ vu vơ, mơ hồ trong đầu tôi cứ loằng ngoằng, mông lung như khói hương. Tôi mường tượng thấy những việc mới sắp tới, nhất định tới, như là đúc chuông, phục tượng… Còn phải làm thêm rất nhiều việc nữa, nếu Nhà nước chưa làm được thì xin hãy để cho dân làm, sẽ đâu vào đó cả.

Phục hồi nhân tâm là việc quan trọng nhất. Những gì thất nhân tâm thì thành tâm sửa lại. Có công tâm với lịch sử mới thực thi được công bằng xã hội.

Tôi cứ nghĩ lan man như thế… Như thế… Thu phục nhân tâm ư? Thì hãy chọn những gì tốt đẹp của cha ông mà tôn vinh. Hoà hợp dân tộc ư? Thì hãy lấy nhân tâm của cha ông mà truyền bá. Đối xử tử tế với tổ tiên là phẩm chất tối thiểu của đạo lý…

Thắp nén nhang cúi lạy tiền nhân, tôi không khỏi rưng rưng nước mắt khi hình dung những sai lầm trầm trọng của hậu thế đang được chỉnh sửa dần dần. Có được ngày này, dẫu đã muộn cũng còn may mắn lắm, còn có dịp cho người nay tạ lỗi với người xưa.

Rơm rạ ơi ta trở về đây
Ngôi chùa cũ mái đình xưa hiện bóng
Cỏ áy vàng bãi tha ma vắng
Lòng ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà…
(Về đồng)

Giá có bà ngoại tôi trong khánh lễ hôm nay, chắc chắn rằng người phải khóc nức nở …

Tự kỷ niệm lên tuổi 60, cuối Đinh Hợi, 2007.

Nguyễn Duy

PS: Bản nhạc mượt mà trên là bài YÊU của Văn Phụng

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2008

NHỮNG GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG CỦA NĂM CŨ

Chộp được mấy chú chuột vào sáng 29

 

Chợ hoa ở dọc sông đường Trần Xuân Sọan. Hoa và trái cây mang từ miền Tây như Thốt Nốt, Bến Tre, Cái Mơn.

Sáng 29 mà ghe lên tấp nập. Khung cảnh giống chợ nổi Cần Thơ

Sáng 30 vẫn còn người buôn bán. Và đi mua chữ Thư pháp tiếng Việt. Nhưng ông bạn này viết chữ PHƯỚC xấu quá

Một poster mới thấy

 

Chiều 30, ghe thương hồ thu xếp về quê để kịp cúng ông bà.

 

Nhiều người vẫn tìm mua, hy vọng sẽ rẽ hơn.

 

 

Cây mai này khoảng 3 triệu đồng, bằng lương của 3 công nhân. Nhưng người bán quyết định mang về chưng tết.

 

Thôi chào SÀI GÒN nhé. Trong số quà tết mang về, có bụi hoa giả bằng nylon.

 

Thôi về cho lẹ để còn cúng ông bà.

Lủi thủi về một mình, tới nhà thì chắc trời đã tối đen, nhưng vừa kịp để cúng ông bà.

Về chung cho có bạn, biết đâu qua ghe mình làm lai rai ba sợi nghen.

 

Mai thế này mới gọi là Mai

Ngày tết đối với tôi, có một cái gì đó rất thiêng liêng. Chiều 30 chạy vòng vòng xem thiên hạ chuẩn bị đón giao thừa. Trong ánh nắng dịu mát, không khí thật là ấm cúng. Ngày Tết không phải là ngày nghỉ. Ngày Tết là ngày trời đất giao hòa, quá khứ, hiện tại và tương lai là một.

Chúc các bạn một mùa Xuân trọn vẹn.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2008

Tết Mậu Tý 2008

Mời các bạn xem một số hình ảnh về Tết Mậu Tý

Năm nay khẩu hiệu đã có thay đổi. Theo lời nhiều người thì ở các địa phương, khẩu hiệu vẫn như trước đây là "MỪNG ĐẢNG, MỪNG XUÂN, ..." . Còn ở Sài Gòn thì:

Các đường chính Nguyễn Huệ, Đồng Khởi, Lê Lợi, Lê Duẫn được trang hoàng cổng chào và đèn rất đẹp.

Cổng chào đường Lê Duẫn

Tâm điểm là đường hoa

 

Năm nay đường hoa Nguyễn Huệ  được nối tới đường Lê Lợi

 

Đường hoa Nguyễn Huệ

 

Chong chóng

 

Một số hình ảnh

 

Hình ảnh làng quê

 

Vó lưới cá

 

Nhưng chủ đề của đường hoa năm nay là HƯỚNG VỀ BIỂN ĐÔNG

 

Hai cha con ông này thì chẳng tha thiết gì chuyện ngắm hoa

"Về ngủ thôi bố ơi"

 

Tết Mậu