Thứ Ba, 26 tháng 8, 2008

Về thơ LỤC BÁT

Trong khói sóng mênh mông

Có bóng người vô danh

Từ bên này sông Tiền

Qua bên kia sông Hậu

Mang theo chiếc độc huyền

Điệu thơ Lục Vân Tiên

Với câu chữ:

Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả

Tới Cà Mau - Rạch Giá

Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng

Muỗi vắt nhiều hơn cỏ

Chướng khí mù như sương

Thân không là lính thú

Sao chưa về cố hương?

Chiều chiều nghe vượn hú

Hoa lá rụng buồn buồn

Tiễn đưa về cửa biển

Những giọt nước lìa nguồn

Đôi tâm hồn cô tịch

Nghe lắng sầu cô thôn

Dưới trời mây heo hút

Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút

Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa

Năm tháng đã trôi qua

Ray rứt mãi đời ta

Nắng mưa miền cố thổ

Phong sương mấy độ qua đường phố

Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…

SƠN NAM - Hương rừng Cà Mau

NgườiViệt thường tự hào về thơ Lục Bát qua các tác phẩm như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên…Trước đây tôi vẫn lầm tưởng là Lục Bát là một thể thơ của ngườI Việt. Khi học ở DH Vạn Hạnh tôi có nghe hình như là Dương Nghiễm Mậu hay Doãn Quốc Sĩ có nói là ngườI Thái cũng có thơ lục bát. Từ đó, nhận thức của tôi đã thay đổi. Tôi nghĩ có lẽ Song thất Lục bát, còn gọilà Lục bát Giáng thất, sự giao duyên giữa Lục bát và Thất ngôn của Đường thi mớI là của ngườI Việt.

Riêng thơ lục bát, chỉ cần câu tám thôi cũng có đầy đủ tính chất như một bài Haiku của Nhật.

Các bạn hãy đọc tiểu luận dưới đây.

Lục bát và các dòng thơ lục bát
Inrasara

I. Lục bát

Lục bát, lâu nay ta hay có thói quen xem nó thuần Việt. Nhưng không. Đây là thể thơ gần như của chung các dân tộc Đông Nam Á. Bởi cơ cấu ngôn ngữ dị biệt nên “lục bát” mỗi nơi phát triển mỗi khác. Ngay từ cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII được ghi nhận là thời điểm ra đời của sử thi Akayet Dewa Mưno, lục bát Chăm đã rất chuẩn mực. Trước đó nữa, trong panwơc pađit ca dao Chăm, lục bát là thể thơ được độc quyền sử dụng. Chăm gọi nó là thể ariya. Thử xét qua lục bát Việt và Chăm.

1. Lục bát Chăm gieo vần lưng. Chữ thứ sáu dòng lục hiệp với chữ thứ tư dòng bát:

Thei mai mưng deh thei o

Drơh phik kuw lo yaum sa urang

Ai đến từ đằng kia xa

Giống người yêu ta riêng chỉ một người

Hiện tượng này cũng thấy trong ca dao Việt:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn hái nụ tầm xuân

2. Ariya gieo cả vần bằng lẫn vần trắc. Ở trường hợp này, người Chăm gieo vần cũng khá linh hoạt, họ không nhất thiết cứ một cặp bằng rồi đến một cặp trắc. Có khi cả đoạn dài tác giả chỉ sử dụng độc vần bằng, nhưng đột hứng chúng ta thấy vần trắc xuất hiện:

Mai baik dei brei pha crong

Tangin dei tapong kauk luk mưnhưk

Bbuk ai tarung yuw harơk

Tangin dei pơk nhjwơh yuw tathi

Về đi em cho đùi gác

Bàn tay em vuốt, đầu xức dầu thơm

Tóc anh bù rối như rơm

Tay em vuốt thì mượt như lược chải

Đây là loại vần dù hiếm nhưng cũng có xuất hiện trong thơ ca dân gian Việt:

Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi

Nhưng không như ở lục bát Việt, vần trắc tồn tại khá bình đẳng với vần bằng trong ariya Chăm. Thậm chí trong một bài thơ dài, nó gần như đứng xen kẽ.

3. Tiếng Chăm là ngôn ngữ đa âm tiết nên khác với lục bát Việt, số lượng tiếng được đếm trong ariya Chăm cũng khác. Có hai trường hợp xảy ra:

- Dạng đếm âm tiết: dòng lục gồm sáu âm tiết và dòng bát tám âm tiết, không lệ thuộc vào lượng chữ trong câu thơ.

- Dạng đếm theo lượng trọng âm của từ: Hiện tượng đọc lướt, nén chữ (compression), hay nuốt âm (elision) là chuyện bình thường gần như là thuộc tính của ngôn ngữ đa âm tiết, nhất là trong sáng tác thơ ca. Tiếng Chăm không là ngoại lệ. Dấu vết của cách đếm này cũng có mặt trong vài bài ca dao Việt xưa:

Mình nói dối ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ ta thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi xách nước tắm cho con mình

Nhưng khi lục bát Việt phát triển ổn định, nó dừng lại ở 6-8. Các cách tân sau này không quan tâm đến lượng âm tiết trong câu mà đặt nặng ở vắt dòng và nhất là ngắt nhịp. Thì lục bát Chăm vẫn phát triển theo kiểu trương nở.

4. Về thanh điệu: Cũng như thanh điệu trong lục bát Việt xưa, ariya Chăm phát triển khá linh hoạt. Linh hoạt cả khi thanh điệu của lục bát Việt ổn định ở: Bằng Trắc Bằng / Bằng Trắc Bằng Bằng. Lục bát Việt khi xưa có vần trắc. Và khi bài thơ hơn hai cặp lục bát có lối gieo cả vần bằng lẫn trắc thì chúng mang dáng dấp của thể song thất lục bát.

Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi

Tò vò ngồi khóc tỉ ti

Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào

5. Ngoài các thể lục bát kể trên, người Chăm còn có thể pauh catwai (biến thể từ ariya) mà mỗi cặp lục bát đều đứng biệt lập như một bài thơ hoàn chỉnh với đầy đủ ý nghĩa, được kết nối liên hoàn đến cả mấy trăm câu mà vẫn thống nhất qua giọng điệu, tư tưởng. Hình thức không khác mấy so với Choka (trường ca) của Nhật (Choka là Shika: 5-7 âm được kết nối liên hoàn).

6. Đến nay, các nhà nghiên cứu chưa thể khẳng định thời điểm ra đời của lục bát, càng không biết dân tộc nào khai sinh ra nó nữa. Nhưng điều chắc chắn là có sự ảnh hưởng và tác động qua lại. Từ thập niên 50 của thế kỉ trước, giới làm thơ Chăm có sáng tác theo thể lục bát thuần Việt: ổn định, chỉ gieo vần bằng và hiệp vần ở chữ thứ 6 dòng bát. Dù vậy, cái khung của ngôn ngữ đa âm tiết vẫn chưa hết “gò bó” thể ariya Chăm. Để nó không bao giờ hết là nó, nghĩa là đặc trưng Chăm.

(Phần I này lược tóm từ: “So sánh lục bát Chăm – Việt”, Tạp chí Văn hóa - nghệ thuật, số 09.2001).

II. Các dòng/ khuynh hướng lục bát Việt

Không kể các tác phẩm cổ điển sáng tác theo thể lục bát như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên,… lục bát hiện đại Việt Nam phát triển theo 4 dòng chính.

- Dòng lục bát dân gian, mà lục bát Nguyễn Bính là rất tiêu biểu. Nhịp thơ nhịp nhàng, ngôn ngữ dung dị dễ hiểu, hình ảnh thơ quen thuộc và gần gũi với đời sống thôn quê Việt Nam. Rất gần với ca dao. Sau Nguyễn Bính, đã có nhiều nhà thơ đi theo và phát triển xu hướng lục bát này, Đồng Đức Bốn đậm hơn cả.

- Dòng lục bát trí tuệ. Có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận thời Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Mới mẻ ở đề tài và ý tưởng, ngôn từ trí tuệ và chắt lọc bên cạnh là độ nén của ý thơ tạo nên thứ thi pháp rất hiện đại.

- Dòng lục bát huyền ảo. Dòng này nẩy nở và phát triển mạnh ở miền Nam thời sáng tác [và ảnh hưởng] Phật giáo thịnh hành: Huy Tưởng, Tuệ Mai và nhất là Phạm Thiên Thư với Động hoa vàng (1973) và Trại hoa đỉnh đồi (1975). Ngôn ngữ thơ mơ mơ hồ hồ bên cạnh hình ảnh mông lung, ý tưởng thiếu rành mạch, tạo một cảm giác miên man, mong manh, huyền ảo. Bài thơ đôi lúc chuyển nhịp khá bất ngờ.

- Dòng lục bát hậu hiện đại. Mở đầu bằng Bùi Giáng. Sáng tác của ông giai đoạn sau, nhất là các bài thơ mà tỉ lệ từ Hán Việt lấn át. Có khi bài thơ chỉ là một chuỗi liên hệ âm, thanh, vần, phép nói lái trong ngôn ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau như thể một ma trận chữ vô nghĩa; rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩ dẫm đạp lên nhau, xô đẩy, nhảy cóc rối tù mù. Bài “Ngẫu hứng” đã được Nguyễn Hưng Quốc bình rất độc đáo.

Một hôm gầu guốc gầm ghì

Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm

Bôm ha? đạn hả? bao gồm

Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen.

Sau Bùi Giáng, ta thấy Nguyễn Duy sáng tác theo xu hướng này, nhưng không đậm bằng. Các bạn trẻ Sài Gòn sau đó đẩy lục bát hậu hiện đại đi xa hơn nữa.

Bên cạnh bốn dòng trên, ta còn thấy sự thể Du Tử Lê đã cố ý cắt nát lục bát bằng các dấu chấm, phẩy, gạch chéo… để tạo nhịp mới, nhịp chỏi cho thể thơ vốn khá mềm mại này – một cố ý thuần kĩ thuật.

Nằm nghe - chăn gối rơi. Cùng

tháng năm bằn bặt.- Phật còn ở không

Tôi nhìn - tôi rất chon von

núi non âm bản. - rừng son vẽ.- Buồn

Hôm nói chuyện ở Lớp Cử nhân tài năng tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh vào năm 2006, một sinh viên tụng ca lục bát Đồng Đức Bốn, bị tôi hỏi vặn: bạn đã đọc lục bát Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư chưa? Câu trả lời là - chưa! Tôi nói: thế thì bạn chưa thể bàn về lục bát được. Đơn giản, nếu là độc giả phổ thông, bạn có thể cảm [cúm, mạo] nhận hay khen chê tùy hứng, nhưng khi bạn đang ngồi giảng đường để trở thành người đọc chuyên nghiệp ở thì tương lai (nhà phê bình, giáo viên dạy văn,…) thì bạn cần đọc hệ thống, nghĩa là phải nhận diện thơ lục bát trong tiến trình của nó. Không thể khác.

Trên đây, tôi chỉ phân loại mang tính gợi ý. Đề tài gợi mở nhiều hướng nghiên cứu rộng và sâu hơn.

http://www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=8568&LOAIID=33&LOAIREF=1&TGID=730

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2008

The spirit of OLYMPIC

Tinh thần Thế vận hội
Đã bị Giết chết

Bài của Alexander McCall Smith

Ngày 18-8-2008

Permanent Link

Tôi hy vọng rằng những người dân Trung Quốc thích thú với Thế vận hội Olympic của mình. Nhưng một khi họ thưởng thức xong rồi, mọi người đã ngừng lại và trở về nhà, tôi nghĩ có điều gì đó cần phải được thực hiện để cải tổ hoạt động Olympic. Tôi nghi ngại rằng có nhiều người cảm thấy kinh tởm bởi những gì đã diễn ra trong Thế vận hội song lại không muốn nói huỵch toẹt ra vì họ e là sẽ bị coi là kẻ phá đám.

Có cái gì không ổn đối với Thế vận hội Olympic? Câu trả lời ngắn gọn là: tất cả mọi thứ. Thế nhưng bản thân nó có thể đã được bắt đầu với tinh thần tụ hội. Thể thao thường đúng như cái tên đã được gợi nên của mình: một hoạt động thể chất được cam kết trong một tinh thần vui chơi. Những cuộc thi đấu quá nặng, nguy hiểm chết người không phải là những gì mà thể thao hướng tới. Thể thao là một hoạt động phổ biến nhằm lôi cuốn người dân lại với nhau trong một niềm vui chung. Nó để cho con người có được mối giao tiếp với nhau và trau dồi cá tính cho những người cùng tham gia. Thể thao đã làm cho mọi người tốt,khỏe, vui hơn - và vẫn đang làm như thế.

Thế vận hội Olympic, than ôi!, đã trở nên trái ngược với tất cả những điều này. Sự thối nát đã được trở thành cái mốt với Thế vận hội Berlin [1] bị chính trị hóa như một định mệnh, khi Hitler đã sử dụng Olympic trong một nỗ lực chứng tỏ sức mạnh vượt trội của nước Đức. May mắn thay, y đã bị ngáng trở, và chiến thắng của lực sĩ người Mỹ gốc Phi Jesse Owens [2] là một cú phóng lao tuyệt vời vào mắt Goebbels [3]. Thế nhưng hạt giống đã bị gieo mầm, và đã được hăng hái cày xới bởi Liên bang Sô viết trong suốt Cuộc chiến tranh Lạnh. Chủng loại con người sô-viết quyết chí cho chúng ta thấy những nét ưu tiệt của chủ nghĩa cộng sản bằng sự vượt trội trong thể thao. Và chúng ta hết thảy đều biết chuyện ấy đã dẫn tới đâu: tới cái nhà kính trồng cây để huấn luyện những trẻ em đã được chọn lựa để trở thành các lực sĩ, tới sự không tôn trọng các luật lệ có tính nguyên tắc của thể thao nghiệp dư, và, đương nhiên, tới sự hoài nghi rằng một số trong những nữ lực sĩ Sô-viết cường tráng đó không hoàn toàn đúng như những gì mà họ đã tự cho là như thế.

Người Mỹ đã bước vào cuộc thi tai hại này với niềm vui đầy hăng hái và sung mãn, và Olympic đã trở thành một thứ thay thế cuộc đua thời gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ, các lực sĩ đã được hưởng lợi từ học bổng của trường đại học, là thứ cho phép các vận động viên chuyên nghiệp giả trang thành nghiệp dư [4]. Các quốc gia khác cũng đã thường xuyên thực hiện những phương cách tương tự. Chẳng còn ai là trong sáng ngời ngời nữa.

Sự nhấn mạnh trước đây về tính nghiệp dư, về sau đã bị loại khỏi hiến chương Olympic, nó có nghĩa rằng tính không trung thực đã trở nên một thứ được ghi nhận vào trong chính cơ cấu của hoạt động Olympic. Một khi tính nhà nghề được chấp nhận, khi ấy mọi người có thể không bị hạn chế trước thực tế là họ đã thực sự là những lực sĩ chuyên nghiệp, luôn luôn và dễ dàng nói dối về tình trạng nghiệp dư của mình. Nhưng những gì xảy ra sau đó đã là hình mẫu khác cho biểu hiện sửa đổi sai lạc đã đi tới mối bất hòa. Điều này đã trở thành một thứ tham nhũng có tính chất lừa gạt và mạnh mẻ hơn so với bất cứ thứ gì ta được chứng kiến trước đây, và nó đã đi vào hình thức thương mại.

Sự bảo trợ thương mại đối với các lực sĩ là rất quan trọng ở các quốc gia nơi mà các chính phủ rất miễn cường chi phí cho thể thao. Mọi người đều biết về sự giải cứu tài chính của chính phủ cho Thế vận hội Sydney, song không phải tất cả các chính phủ đều chu cấp hậu hĩ; Chính phủ Mỹ dĩ nhiên là không làm cách này. Cho nên điều đó có nghĩa rằng một số lực sĩ sẽ cần lôi cuốn sự ủng hộ có tính thương mại nếu như họ ở vào một vị thế phải dành toàn bộ thời gian của mình cho luyện tập. Nhưng nếu lối trợ giúp có tính thương mại này là rất hào phóng và độ lượng – như nó thường là vậy – thế rồi các lực sĩ đó sẽ có một ưu thế cao hơn những ai ít được hổ trợ một cách rộng rãi. Các trung tâm huấn luyện, trang thiết bị, vật lý trị liệu v.v.. có thể là rất đắt đỏ.

Chúng ta liệu có thực sự muốn xem một trận đấu mà một trong những yếu tố mang tính quyết định - nếu không phải chỉ có một yếu tố quyết định - sẽ là có bao nhiêu tiền đã được đổ vào một đội tuyển đặc biệt? Và chúng ta có thực sự muốn một tình huống chắc chắn xảy đến, nơi mà những đội tuyển Olympic có khả năng nhất lại được sở hữu bởi các tập đoàn đa quốc gia? Khi đó liệu các lực sĩ có thể sẽ bảo: "Tôi chạy cho cái công ty đó", thay vì bảo "tôi chạy vì đất nước tôi"?

Đưa các quốc gia vào trong sự đánh đồng để được ngang nhau quả là khó khăn với chính họ. Tôi chưa từng được hiểu tại sao những môn thể thao lại cần phải là một vấn đề của chủ nghĩa dân tộc, song đó lại là những gì mà chúng đã trở thành. Các quốc gia cảm thấy rằng họ phải thi đua không ngừng để được tham dự thế vận hội, mà không quan tâm tới việc điều này làm cho họ phải trả giá như thế nào. Cái cung cách là làm sao phải có được một lời tán tụng về tài năng và thành tích cá nhân đã trở thành một thể chế tham lam ngấu nghiến tiền của công chúng và khuyến khích cho lối hoang phí ngông cuồng. Tham dự Olympic có ý nghĩa này cho một quốc gia: đó là gận hội Olympic hay một tập hợp những thư vợc cấp vốn khác. Bạn thiên về điều nào: Thế vận hội Olympic hay một tập hợp những thư viện, phòng hòa nhạc, bệnh viện khang trang?

Olympic cũng cổ vũ cho hình thái thô thiển bậc nhất của chủ nghĩa dân tộc ầm ĩ, ngạo mạn và hoan hỉ. Thành tích cá nhân tỏ ra không còn có vị trí đặc biệt nữa: nó trở thành một câu hỏi lớn hơn là có bao nhiêu huy chương mà mỗi quốc gia đã giành được. Thế nhưng tại sao các lực sĩ lại cần phải tranh đua dưới lá cờ tổ quốc mình? Tại sao không làm cho Thế vận hội trở thành một cuộc thi của những cá nhân thôi, với mỗi quốc gia sẽ được quyền đưa tới một số lượng đấu thủ nào đó rồi họ sẽ được đề cử với tư cách như dân chúng, chứ không phải là con tốt thí cầm cờ? [5]

Tiếp theo là vấn đề về những thiệt hại rõ ràng đối với hành tinh mà Thế vận hội Olympic gây ra. Có bao nhiều là bê tông được đổ vào cho cái tên của một Olympic hiện đại? Có bao nhiên tấn carbon dioxide thải vào khí quyển trong cuộc theo đuổi cái món phù hoa này? Có bao nhiêu người dân nghèo khổ phải bỏ nhà ra đi để nhường chỗ cho những sân vận động hoành tráng phô trương và những khách sạn Olympic?

Thực tế không mấy dễ chịu của vấn đề là các Thế vận hội Olympic đang gây nên những thiệt hại trường cửu và lớn lao một cách không thích hợp đối với hành tinh này đúng vào thời điểm khi chúng ta cần phải tìm cách thực hiện mọi điều trên một quy mô nhỏ bé hơn, khiêm nhường nhất. Chúng khích lệ đầu óc con buôn hùng hổ vào một thời điểm khi mà chúng ta đang cần cố gắng khẳng định những giá trị con người hơn là những giá trị của các tập đoàn khổng lồ. Chúng là một thảm họa trong mọi ý nghĩa.

Câu trả lời là gì? Ít nhất chúng ta cần phục hồi một đặc tính thể thao thích đáng hơn và khiêm nhường nhất. Thế vận hội phải được dẫn dắt trên một quy mô nhỏ và mang tính nhân bản. Các vật biểu trưng và sự hãnh diện vênh váo cần được tránh xa để chọn lấy việc tuyên dương thành tích cá nhân. Nói ngắn gọn, con quái vật này cần phải trở lại thành con người.

Cuốn sách gần đây nhất của Alexander McCall Smith là cuốn The Unbearable Lightness of Scones (Nhà xuất bản Polygon) và cuốn The Comfort of Saturdays (Nhà xuất bản Little, Brown).

[1] Olympic lần thứ 11

[2] Jesse Owens (1913-1980): tham gia Olympic Berlin 1936, giành 4 huy chương vàng chạy cự ly 100m, 200m, nhảy xa, chạy tiếp sức (wilipedia)

[3] Goebbels (1897-1945): Bộ trưởng Tuyên truyền Đức quốc xã, với câu nói nổi tiếng 'điều phi lý nói mãi rồi người ta cũng tin'.

[4] " ...Coubertin và tổ chức IOC dự tính từ ban đầu là thế vận hội Olympic chỉ dành cho những vận động viên nghiệp dư. Tính chất không chuyên được xác định bởi sự tôn trọng triệt để với luật không chuyên, một luật lệ có từ thế kỷ 19 làm nền tảng để ngăn không cho các vận động viên chuyên nghiệp tham gia trong các môn thể thao như bơi thuyềnquần vợt..." (wikipedia-vn)

[5] "... Mặc dù Hiến chương Olympic, luật chính thức của Ủy ban Olympic, tuyên bố rằng Olympic là cuộc thi giữa các cá nhân và không phải là giữa các quốc gia nhưng IOC lại phân công các NOC có nhiệm vụ tuyển chọn riêng các đội tuyển Olympic quốc gia..." (wikipedia-VN)

The spirit of OLYMPICS?

Tinh thần Thế vận hội
Đã bị Giết chết

Bài của Alexander McCall Smith

Ngày 18-8-2008

Permanent Link

Tôi hy vọng rằng những người dân Trung Quốc thích thú với Thế vận hội Olympic của mình. Nhưng một khi họ thưởng thức xong rồi, mọi người đã ngừng lại và trở về nhà, tôi nghĩ có điều gì đó cần phải được thực hiện để cải tổ hoạt động Olympic. Tôi nghi ngại rằng có nhiều người cảm thấy kinh tởm bởi những gì đã diễn ra trong Thế vận hội song lại không muốn nói huỵch toẹt ra vì họ e là sẽ bị coi là kẻ phá đám.

Có cái gì không ổn đối với Thế vận hội Olympic? Câu trả lời ngắn gọn là: tất cả mọi thứ. Thế nhưng bản thân nó có thể đã được bắt đầu với tinh thần tụ hội. Thể thao thường đúng như cái tên đã được gợi nên của mình: một hoạt động thể chất được cam kết trong một tinh thần vui chơi. Những cuộc thi đấu quá nặng, nguy hiểm chết người không phải là những gì mà thể thao hướng tới. Thể thao là một hoạt động phổ biến nhằm lôi cuốn người dân lại với nhau trong một niềm vui chung. Nó để cho con người có được mối giao tiếp với nhau và trau dồi cá tính cho những người cùng tham gia. Thể thao đã làm cho mọi người tốt,khỏe, vui hơn - và vẫn đang làm như thế.

Thế vận hội Olympic, than ôi!, đã trở nên trái ngược với tất cả những điều này. Sự thối nát đã được trở thành cái mốt với Thế vận hội Berlin [1] bị chính trị hóa như một định mệnh, khi Hitler đã sử dụng Olympic trong một nỗ lực chứng tỏ sức mạnh vượt trội của nước Đức. May mắn thay, y đã bị ngáng trở, và chiến thắng của lực sĩ người Mỹ gốc Phi Jesse Owens [2] là một cú phóng lao tuyệt vời vào mắt Goebbels [3]. Thế nhưng hạt giống đã bị gieo mầm, và đã được hăng hái cày xới bởi Liên bang Sô viết trong suốt Cuộc chiến tranh Lạnh. Chủng loại con người sô-viết quyết chí cho chúng ta thấy những nét ưu tiệt của chủ nghĩa cộng sản bằng sự vượt trội trong thể thao. Và chúng ta hết thảy đều biết chuyện ấy đã dẫn tới đâu: tới cái nhà kính trồng cây để huấn luyện những trẻ em đã được chọn lựa để trở thành các lực sĩ, tới sự không tôn trọng các luật lệ có tính nguyên tắc của thể thao nghiệp dư, và, đương nhiên, tới sự hoài nghi rằng một số trong những nữ lực sĩ Sô-viết cường tráng đó không hoàn toàn đúng như những gì mà họ đã tự cho là như thế.

Người Mỹ đã bước vào cuộc thi tai hại này với niềm vui đầy hăng hái và sung mãn, và Olympic đã trở thành một thứ thay thế cuộc đua thời gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ, các lực sĩ đã được hưởng lợi từ học bổng của trường đại học, là thứ cho phép các vận động viên chuyên nghiệp giả trang thành nghiệp dư [4]. Các quốc gia khác cũng đã thường xuyên thực hiện những phương cách tương tự. Chẳng còn ai là trong sáng ngời ngời nữa.

Sự nhấn mạnh trước đây về tính nghiệp dư, về sau đã bị loại khỏi hiến chương Olympic, nó có nghĩa rằng tính không trung thực đã trở nên một thứ được ghi nhận vào trong chính cơ cấu của hoạt động Olympic. Một khi tính nhà nghề được chấp nhận, khi ấy mọi người có thể không bị hạn chế trước thực tế là họ đã thực sự là những lực sĩ chuyên nghiệp, luôn luôn và dễ dàng nói dối về tình trạng nghiệp dư của mình. Nhưng những gì xảy ra sau đó đã là hình mẫu khác cho biểu hiện sửa đổi sai lạc đã đi tới mối bất hòa. Điều này đã trở thành một thứ tham nhũng có tính chất lừa gạt và mạnh mẻ hơn so với bất cứ thứ gì ta được chứng kiến trước đây, và nó đã đi vào hình thức thương mại.

Sự bảo trợ thương mại đối với các lực sĩ là rất quan trọng ở các quốc gia nơi mà các chính phủ rất miễn cường chi phí cho thể thao. Mọi người đều biết về sự giải cứu tài chính của chính phủ cho Thế vận hội Sydney, song không phải tất cả các chính phủ đều chu cấp hậu hĩ; Chính phủ Mỹ dĩ nhiên là không làm cách này. Cho nên điều đó có nghĩa rằng một số lực sĩ sẽ cần lôi cuốn sự ủng hộ có tính thương mại nếu như họ ở vào một vị thế phải dành toàn bộ thời gian của mình cho luyện tập. Nhưng nếu lối trợ giúp có tính thương mại này là rất hào phóng và độ lượng – như nó thường là vậy – thế rồi các lực sĩ đó sẽ có một ưu thế cao hơn những ai ít được hổ trợ một cách rộng rãi. Các trung tâm huấn luyện, trang thiết bị, vật lý trị liệu v.v.. có thể là rất đắt đỏ.

Chúng ta liệu có thực sự muốn xem một trận đấu mà một trong những yếu tố mang tính quyết định - nếu không phải chỉ có một yếu tố quyết định - sẽ là có bao nhiêu tiền đã được đổ vào một đội tuyển đặc biệt? Và chúng ta có thực sự muốn một tình huống chắc chắn xảy đến, nơi mà những đội tuyển Olympic có khả năng nhất lại được sở hữu bởi các tập đoàn đa quốc gia? Khi đó liệu các lực sĩ có thể sẽ bảo: "Tôi chạy cho cái công ty đó", thay vì bảo "tôi chạy vì đất nước tôi"?

Đưa các quốc gia vào trong sự đánh đồng để được ngang nhau quả là khó khăn với chính họ. Tôi chưa từng được hiểu tại sao những môn thể thao lại cần phải là một vấn đề của chủ nghĩa dân tộc, song đó lại là những gì mà chúng đã trở thành. Các quốc gia cảm thấy rằng họ phải thi đua không ngừng để được tham dự thế vận hội, mà không quan tâm tới việc điều này làm cho họ phải trả giá như thế nào. Cái cung cách là làm sao phải có được một lời tán tụng về tài năng và thành tích cá nhân đã trở thành một thể chế tham lam ngấu nghiến tiền của công chúng và khuyến khích cho lối hoang phí ngông cuồng. Tham dự Olympic có ý nghĩa này cho một quốc gia: đó là gận hội Olympic hay một tập hợp những thư vợc cấp vốn khác. Bạn thiên về điều nào: Thế vận hội Olympic hay một tập hợp những thư viện, phòng hòa nhạc, bệnh viện khang trang?

Olympic cũng cổ vũ cho hình thái thô thiển bậc nhất của chủ nghĩa dân tộc ầm ĩ, ngạo mạn và hoan hỉ. Thành tích cá nhân tỏ ra không còn có vị trí đặc biệt nữa: nó trở thành một câu hỏi lớn hơn là có bao nhiêu huy chương mà mỗi quốc gia đã giành được. Thế nhưng tại sao các lực sĩ lại cần phải tranh đua dưới lá cờ tổ quốc mình? Tại sao không làm cho Thế vận hội trở thành một cuộc thi của những cá nhân thôi, với mỗi quốc gia sẽ được quyền đưa tới một số lượng đấu thủ nào đó rồi họ sẽ được đề cử với tư cách như dân chúng, chứ không phải là con tốt thí cầm cờ? [5]

Tiếp theo là vấn đề về những thiệt hại rõ ràng đối với hành tinh mà Thế vận hội Olympic gây ra. Có bao nhiều là bê tông được đổ vào cho cái tên của một Olympic hiện đại? Có bao nhiên tấn carbon dioxide thải vào khí quyển trong cuộc theo đuổi cái món phù hoa này? Có bao nhiêu người dân nghèo khổ phải bỏ nhà ra đi để nhường chỗ cho những sân vận động hoành tráng phô trương và những khách sạn Olympic?

Thực tế không mấy dễ chịu của vấn đề là các Thế vận hội Olympic đang gây nên những thiệt hại trường cửu và lớn lao một cách không thích hợp đối với hành tinh này đúng vào thời điểm khi chúng ta cần phải tìm cách thực hiện mọi điều trên một quy mô nhỏ bé hơn, khiêm nhường nhất. Chúng khích lệ đầu óc con buôn hùng hổ vào một thời điểm khi mà chúng ta đang cần cố gắng khẳng định những giá trị con người hơn là những giá trị của các tập đoàn khổng lồ. Chúng là một thảm họa trong mọi ý nghĩa.

Câu trả lời là gì? Ít nhất chúng ta cần phục hồi một đặc tính thể thao thích đáng hơn và khiêm nhường nhất. Thế vận hội phải được dẫn dắt trên một quy mô nhỏ và mang tính nhân bản. Các vật biểu trưng và sự hãnh diện vênh váo cần được tránh xa để chọn lấy việc tuyên dương thành tích cá nhân. Nói ngắn gọn, con quái vật này cần phải trở lại thành con người.

Cuốn sách gần đây nhất của Alexander McCall Smith là cuốn The Unbearable Lightness of Scones (Nhà xuất bản Polygon) và cuốn The Comfort of Saturdays (Nhà xuất bản Little, Brown).

Hiệu đính: Blogger Trần Hoàng

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008

[1] Olympic lần thứ 11

[2] Jesse Owens (1913-1980): tham gia Olympic Berlin 1936, giành 4 huy chương vàng chạy cự ly 100m, 200m, nhảy xa, chạy tiếp sức (wilipedia)

[3] Goebbels (1897-1945): Bộ trưởng Tuyên truyền Đức quốc xã, với câu nói nổi tiếng 'điều phi lý nói mãi rồi người ta cũng tin'.

[4] " ...Coubertin và tổ chức IOC dự tính từ ban đầu là thế vận hội Olympic chỉ dành cho những vận động viên nghiệp dư. Tính chất không chuyên được xác định bởi sự tôn trọng triệt để với luật không chuyên, một luật lệ có từ thế kỷ 19 làm nền tảng để ngăn không cho các vận động viên chuyên nghiệp tham gia trong các môn thể thao như bơi thuyềnquần vợt..." (wikipedia-vn)

[5] "... Mặc dù Hiến chương Olympic, luật chính thức của Ủy ban Olympic, tuyên bố rằng Olympic là cuộc thi giữa các cá nhân và không phải là giữa các quốc gia nhưng IOC lại phân công các NOC có nhiệm vụ tuyển chọn riêng các đội tuyển Olympic quốc gia..." (wikipedia-VN)

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2008

Đi NHA TRANG (How to go to NHA TRANG)

TẶNG CÁC BẠN NÀO “TỪNG” Ở NHA TRANG

 

Hiện giờ, chúng ta có thể đi NHA TRANG bằng nhiều cách:

XE ĐÒ (ngồi phê à nghe),

XE RIÊNG (Bây giờ thi nhiều),

MÁY BAY, XE GẮN MÁY (bây giờ chia làm 2 loạI là Xe máy- nhỏ hơn 50cc-    xe mô tô –trên 50cc). Trước đây XE MÁY là “xe đạp”.

 

Và XE LỬA. Thường đi từ ga Sài Gòn. (ảnh trên)

Vì đi vào ban đêm (khởi hành lúc khoảng 8:30, theo lịch trình thì sẽ đến Nha Trang lúc 5,6 giờ sáng.

Toa có 3 loại.

Toa có gường nằm (4 gường)

Toa ghế mềm (như ghế máy bay, ngữa ra sau được).

 

 Và ghế loại INDIANA JONES (Vì giống trong một phim của Indi

 

Tàu luôn phục vụ MÌ TÔM (tại sao lại kêu là MÌ TÔM hé) tại restaurant ở toa INDI

RESTAURANT "The Ramen's"

 

 

 

        Ga Nha Trang

 

 

Ga THÁP CHÀM

Nhìn ga cũ, chắc lúc trước là điểm dừng quan trọng của tuyến. Nay thì thế này đây

Trước khi tới Ga Tháp Chàm, thì Tháp Chàm đã hiện rõ trên đường chân trời

GA MƯỜNG MÁN

Cái tên rất quen thuộc vì có nhà văn Mường Mán. Từ Mường Mán ra Mũi Né chừng 20 km. Vì vậy muốn đi Mũi Né bằng xe lửa (ý lộn TẦU HỎA) thì ra Mường Mán rồi xuống.

Muốn nhìn các ga thì nên đi vào ban ngày, hoặc lúc về chọn chuyến trưa thì hay nhứt.

 

Cơm chiều trên tàu, 2chục ngàn (20 nghìn)

Từ sau 1975, các thành phố trong Nam thay đổi đến chóng mặt. Có lẽ nhiều người muốn các thành phố mang một diện mạo mới, vì vậy những gì xưa cũ dần dần mất đi. Nhưng bỗng có lúc, người ta mới giật mình tự hỏi, tại sao mình không cố giữ nó lại nhỉ? Thế là nhà rường Huế, các nhà cổ ...lại được bảo tồn...nhưng không biêt có trễ hay không?

Riêng Nha Trang, có những thứ tưởng tầm thường, nhưng thiếu nó, không thể gọi là Nha Thành, và hình như người ta cũng không nỡ bỏ nó đi. Chẳng hạn như hàng phi-lao (philaos?), những cây bàng mà mùa của nó đúng là mùi biển.

Vẫn còn những cây bàng cổ thụ

Xóm chài vẫn còn đó, nhưng sơ sác quá. Hình như đang bị giải tỏa.

Vì nằm trên đường Trần PHÚ, sát bải biển.

Quý anh mình đừng có tham PHÚ mà phụ BẦN nhen.

 

Nhìn từ cầu nằm trên đường TRẦN PHÚ

Tháp bà PONAGAR

 

Từ trên cầu nhìn về biển

 

Bải biển Nha Trang

Trên biển Nha Trang, có mấy ông già câu cá bằng cách ngồi trong một cái thùng mốp, trôi giữa biển để câu cá hầu, một loại cá để làm chả. Rất tiếc chụp ảnh không được.

Đi Nha Trang nhớ ăn con này nghe. Ăn sống ngọt cực kỳ

Nếu có qua Hòn ngọc Việt (Vinpearl) thì nên xem nhạc nước. Theo tôi nghĩ thì hay hơn nhạc nước ở Singapore vì mang tính nghệ thuật nhiều hơn.

Mình có thể qua Hòn Ngọc Việt bằng phà hay cáp treo

Một trong những bải tắm nổi tiếng là Bải Dài ở Cam Ranh. Đi từ Nha Trang mất khoảng 30 phút bằng xe hơi.

Tấm hình này "chộp" ké một cặp đang "đóng phim" trước ngày cưới. Nghe đâu tối sơ sơ "chỉ 10 triệu". Cô dâu bị hành hạ thê thảm

 

Bình minh Nha Trang

 

Hoàng hôn Nha Trang

Vịnh NHA TRANG về chiều

 

 

 

 

 

 

 

Bình minh

Vài hình ảnh trên đường đi

Ảnh trên gợi nhớ bài NƯƠNG CHIỀU của PD, "trâu bò về giục mõ xa xôi...hỡi chiều...". Nhưng khói này là khói đốt rẫy trên núi chớ không phải khói lam chiều đâu nhé.