Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Cõi người ta (Terre des Hommes) Chương V, VI, BÙI GIÁNG dịch

V
MÀU XANH SA MẠC
Tôi đã nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp tục nói thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi… Khóm tôi nhớ lại đây, không nằm sâu trong sa mạc Sahara. Một phép màu nhiệm nữa của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. Phía sau vành tròn cửa kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đám người chen chúc trần gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may rung động, những phố thị kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung tâm những đường ngang lối dọc xòe ra chia về chân trời bốn ngã. Và giống như những đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa đất đồng về nuôi phố thị. Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên máy đo sức ép, và cụm cây xanh ấy, dưới kia, đã biến thành một vũ trụ. Anh làm tên tù, hãm thân trong một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.
Cách trở không ước lượng độ xa xôi. Xa xôi không hẳn là cách biệt. Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật hơn trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể được che giữ bằng sự im lặng, còn kín đáo hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc che giấu những Oasis trong Sahara.


Tôi kể lại đây cái lần ghé lại chốn kia một buổi. Chốn ấy ở gần Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi nào bất cứ: bí mật tràn lan là như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.
Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp được sống một chuyện thần tiên. Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt, và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay…
Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng vàng, và sau chòm cây là ngôi nhà ấy. Một ngôi nhà kỳ lạ. Thấp, nặng, to, gần như một cung thành. Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua ngõ rộng, liền được đưa vào một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như trong một nhà tu.
Rồi hiện ra hai thiếu nữ. Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc, như hai vị quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ thách đố lạ lùng, và biến mất.

Tôi vừa vui vừa thích thú. Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ và lén chùng như cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.
- Hừ! Hừ! Chúng nó man rợ lắm. Người cha thản nhiên nói.
Chúng tôi vào nhà.
Ở Paraguay, tôi từng đã yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò đầu trong kẹt đá lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi, coi chừng thử xem đã tới giờ cần nên xô những lớp đá sỏi kia cho nhào chơi tí chút. Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá lớn. Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục.


Bởi vì tất cả tại đây cùng thi đua nhau mà tàn phế, và tàn phế một cách đáng yêu, đáng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu trên mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm im để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự. Tại đây, ghế, bàn, tủ cái, tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân. Tuy nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với tất cả nhiệt tình. Tất cả đều sạch sẽ, bóng nhoáng, sáng trưng.
Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn mặt một bà lão nhăn nheo. Vách rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu, và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như chiếc thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau chùi bóng lộn. Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng không cùng kính thán. Mỗi năm qua, càng gia tăng mùi hương cho dáng điệu, thêm một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút đượm lừng cho đựng tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan, cũng như thêm một chút hiểm nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.


- Coi chừng!
Một lỗ hổng. Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi. Cái lỗ kia, đâu có tại người oái oăm mà có. Không ai chịu trách nhiệm cả. Đó là sự vụ thời gian. Công trình của ngày tháng. Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó là cách điệu huy hoàng của vương chúa. Người ta không bảo tôi: “Chúng tôi cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên… ” Người ta cũng chả bảo tôi – tuy nhiên là chuyện thật – “Chúng tôi thuê cái đó tại nhà chủ ở thành phố, thời hạn ba mươi năm. Thành phố phải liệu tu bổ lấy. Bên nào cũng nằng nặc… ” Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải thán phục cái phong độ đĩnh đạc kia. Nhiều lắm là người ta nhắc tôi:
- Hừ! Hừ! Hư hỏng chút ít đó…
Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn tôi đây chả lấy đó làm điều chi cho ráo. Tôi đâu dám tưởng ra một đoàn thợ nề, thợ mộc, thợ trần nhà, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ngây dịu ngọt như thế; mà đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám ngày liền, loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta chưa hề biết, tư tưởng tới viếng thăm? Một ngôi nhà không quá khứ mông lung, không niềm riêng man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng hầm méo, không xó hóc hang xiêu – một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?


Trong ngôi nhà có lắm ngõ ngách oái oăm này, hai cô gái có biến mất cũng là chuyện tự nhiên. Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc! Khi người ta đoán chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy đổ ào xuống nào những xấp thư vàng xạm, những giấy tờ, những thư chứng, khế ước của cụ cố ngày xưa, và vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy lần số ổ khóa trong nhà, và cố nhiên không chìa nào ăn nhập ổ nào cả! Những chìa khóa tuyệt vời vô dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ láo đầu hàng, chúng xui ta mơ màng nghĩ tới những kho hầm dưới đất; những đống tiền vàng.
- Xin hạ cố sang phòng ăn.

Chúng tôi ngồi vào bàn. Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện cũ từ phòng này sang phòng khác, vẫn man mác hương trầm, thơm tho hơn tất cả những mùi hương trong thiên hạ. Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các ngọn đèn. Những cây đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ phòng này sang phòng khác, như cái thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi, dời đèn đi thì bao nhiêu hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa trên những bức tường. Rồi, một khi những ngọn đèn nằm yên đâu vào đó, thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng cũng nằm im, bất động, và những khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch nữa, chỉ còn nghe tiếng gỗ kêu răng rắc ở trong đó mà thôi.


Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất trước đây. Họ trang trọng ngồi bàn. Chắc là vừa rồi họ đã mang thức ăn cho chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đã mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi vào, và đã hít vào trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương ân tình của hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về. Giờ đây, hai cô mở tấm khăn ăn, kín đáo nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào nằm trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi. Bởi vì hai cô cũng đã có một con kỳ đà, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong. Mọi thứ đó sống chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên đường mới mẻ ở trên đất trần gian. Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian, vuốt ve chúng với những bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho chúng uống, kể cho chúng nghe những câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.
Và tôi dám nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải đem tất cả óc xét đoán tế nhị của mình ra để mà nhận định về cái gã đàn ông ngồi đối diện, nhận định nhanh, kín đáo và đúng vô cùng. Hồi tôi còn nhỏ, các chị tôi cũng thường “cho điểm” những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc trong nhà. Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một tiếng:
- Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút ít. Và càng ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa quá am tường ngành ngọn. Những vị phán quan đã quen phân biệt những con vật giảo hoạt với những con vật thơ ngây, biết xem bước chân chồn đi mà nhận ra khi nó lành, khi nó dữ, lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự tuyệt. Hỡi ôi! Những vị quan tòa tài ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu suốt những đợt động triều, tận đáy thẳm tâm linh.


Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi cách chơi. Tôi đớn hèn, tôi sợ cái điểm “mười một”, nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô, những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên vẻ trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.
Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù phiếm. Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi mà chắc tôi không dám nói. Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình mà lòe ai được, vì chắc gì lái phi cơ đã táo gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng mà thăm chơi một cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đã mọc cánh tốt tươi chưa, và chào qua các bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng.
Hai nàng tiên lặng lẽ vẫn dò chừng cẩn thận bữa ăn của tôi, tôi bắt gặp mãi cái nhìn kín đáo của họ, cho đến nỗi tôi nao lòng không còn biết nói chi. Bỗng dưng mà im lặng, và trong cơn im lặng đó, bỗng dưng nghe như có cái gì thổ, “xít, xít” dưới sàn nhà, sè sè lướt dưới bàn ăn rồi nín bặt. Tôi ngạc nhiên, ngước mắt tò mò. Cô em nhỏ tuổi, bây giờ như chừng đã hài lòng trong sự nhận xét của mình nhưng còn muốn thử thêm cú chót cho thật chắc vàng thau, cô gặm sâu vào mẩu bánh mỳ với hàm răng non man rợ, cô mới vắn tắt cắt nghĩa cho tôi nghe bằng một dáng dấp thơ ngây băng tuyết, cô muốn làm cho cái gã mọi rợ trước mắt mình phải sửng sốt một trận mà chơi, nếu thật tình gã ta đúng là thằng mọi rợ:
- Mấy con rắn lục đó.
Và ngậm môi, nín lặng, hài lòng, như tuồng lời giải thích chất hằng phỉ phong kia hẳn là phải đủ đầy lắm lắm đối với kẻ nào không quá tối dạ lần khần. Cô chị liếc nhìn tôi một cái thật nhanh để xem thử cái cơn đầu tôi phản ứng ra sao, và cả hai cùng một lần cúi gầm xuống dĩa ăn một khuôn mặt kiều diễm dịu dàng thơ ngây nhất ở trong cõi trăm năm.
- À! Té ra là rắn lục…
Hồn hồn ngạc ngạc, những lời đó rúc từ môi miệng của tôi ra. Ha! Những thứ của lạ đa đoan kia đã bò lòn vào trong ống chân tôi, nghe có tiếng nhột nhột cho cái trái chân, và đó là té ra mấy con rắn lục…
May làm sao là tôi mỉm cười. Và không có chiều gượng gạo. Hẳn hay cô nàng đã cảm thấy chứ ru! Tôi mỉm cười vì tôi sung sướng, tôi mỉm cười vì mỗi phút cứ mỗi cảm thấy cái căn nhà càng khả ái thêm ra; tôi mỉm cười cùng vì sao với ước mong biết thêm những cơn phiêu bồng hồn rắn lục. Thì cô chị nhoẻn nụ cười dìu dặt giúp tôi:
- Chúng làm tổ trong cái hang ở dưới gầm bàn đấy.
Cô em nói lời theo.
- Khoảng mười giờ tối chúng mò về. Ban ngày, chúng săn mồi.
Tới lượt tôi bây giờ lén nhìn trộm hai cô một cái. Họ tế nhị thông minh, họ âm thầm cười nụ ở phía sau hai khuôn mặt điềm tĩnh phiêu bồng. Thật khôn xiết uy quyền nữ chúa…


Ngày nay tôi mộng lại. Những cái gì đó đã xa xôi. Mất cả rồi? Hai nàng tiên ấy bây giờ ra sao? Đã lấy chồng? Thế ra là thay đổi? Từ cõi miền thiếu nữ bước sang bờ thiếu phụ, tình trạng đó có trầm trọng? Có lâm ly? Hai nàng làm gì trong căn nhà mới? Những mối giây ban đầu chấm dứt? Những tơ cỏ rối bời và những con rắn lục đã đi đâu? Các nàng đã từng hòa thân trong cái gì của càn khôn lớn rộng. Nhưng một ngày về, đã đánh thức hồn thiếu phụ trong tấm linh hồn tuyết bạch gái thơ ngây. Người ta mơ tao phùng để ban cho ai một điểm mười chín. Mười chín điểm! Con số đó trĩu nặng ở đáy lòng. Thì bỗng dưng một gã đần, lai rai xuất hiện. Bỗng làm viễn khách tới trình diện nhị cô nương. Lần đầu tiên, con mắt lịch duyệt tinh ranh của cô nương bỗng nhầm lẫn. Cô đem màu lộng lẫy mà trang điểm gã lai rai. Chàng bê bối đọc thơ cho cô nghe, cô vội tưởng chàng ta chính danh thi sĩ. Bé cái nhầm là rứa đó, hỡi người ta. Người ta tưởng gã lai rai không phải người ngốc nghếch. Người ta tưởng gã lĩnh hội thông suốt những diễm kiều trong lỗ hổng nhà người ta. Người ta tưởng gã cũng yêu cầy hôi, chồn hám. Người ta tưởng hắn hài lòng vì rắn lục tin yêu, lay lắt bò leo trong ống chân, gặm bàn bên dưới. Người ta đem trái tim mình ban cho gã, một trái tim tròn trịa chất chứa mộng vườn hoang. Mà gã ta chỉ thích cái khu vườn vun vén. Câu khư thất khiếu lên đường, gã lai rai đã mang nường tiên đi…
VI
TRONG SA MẠC
1
Những êm dịu thế kia chúng tôi không được phép hưởng thụ. Hằng tuần, hằng tháng, hằng năm, làm thân phi công trên độ đường Sahara, chúng tôi hãm thân mình trong cát, di chuyển từ lũy này sang lũy kia, không về. Sa mạc này tuyệt nhiên không có những bóng xanh tương tự: vườn cây, thiếu nữ là chuyện hoang đường. Cố nhiên, phương trời xa, nơi chúng tôi sẽ quay về ngày sau, lúc xong phận sự, có hàng ngàn thiếu nữ chờ đón chúng tôi. Cố nhiên, nơi xa ấy, ngày ngày nô giỡn với chồn hôi hoặc đọc sách, những thiếu nữ đó đương kiên nhẫn sửa sang linh hồn cho dịu ngọt. Lẽ cố nhiên, họ lộng lẫy thêm ra…
Nhưng tôi biết cảnh cô đơn. Ba năm lăn lộn trong sa mạc, té ra tôi đã quen mùi. Ở đây, ta không lo sợ tuổi xuân tàn tạ trong sa thành khô khan. Ở đây ta lại thấy rằng, ở xa ta, chính trần gian đương già cỗi. Cây cối đã đâm hoa kết trái, đất đai đã nảy nở lúa vàng, phụ nữ đã tới kỳ kiềm diễm. Nhưng mùa chuyển nhanh, phải gắng về vội vã… Nhưng mùa chuyển gấp, mà ta còn bận bịu nơi xa… Và những của quý trần gian cứ lọt qua kẽ tay như cát mịn cồn gò.
Thời gian trôi, trôi mãi, nhưng con người thường không lưu tâm nhận thấy. Họ sống trong yên bình tạm bợ. Nhưng bỗng nhiên chúng tôi nhận thấy điều đó một lần hạ cánh xuống trạm nghỉ, gặp trận gió Tây liên miên thổi tới. Chúng tôi giống như người đi tàu lửa tốc hành, tai nghe ầm ầm tiếng bánh sắt nghiến trong đêm tăm, mắt nhìn những ánh đèn loáng thoáng vung vải bên kia miếng kính cửa tàu nối đuôi nhau chạy giật lùi, mà hình dung những cánh đồng lai láng, những thôn xóm êm đềm, những cõi miền huyền ảo, mà mình chẳng cầm giữ được chút gì, vì còn bận chuyến đi. Chúng tôi cũng vậy, lòng còn bận rộn, tai còn ù vì tiếng động cơ lúc đang bay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy mình đang xê dịch trên dặm đường, mặc dù hiện đang đứng yên bình nơi trạm nghỉ. Chúng tôi cảm thấy mình cũng đương bị cuốn hút về một cõi tương lai vô định, xuyên qua ý gió, bởi nhịp động của máu tim.
Mỗi bất hòa ở vùng phiến loạn càng xui sa mạc heo hút thêm. Những đêm dài tại Cap Juby, cứ mười lăm phút lại nghe tiếng hú của bọn lính gác gọi nhau vọng từ điếm canh này sang điếm canh khác, khẩu hiệu cầm canh gióng giả từng hồi như chuông đồng hồ điểm. Pháo đài Tây Ban Nha ở Cap Juby nằm sâu trong vùng phiến loạn, họ cần phải làm thế để phòng ngừa những hăm dọa vô hình, những hiểm nguy không phô khuôn mặt. Và chúng tôi, những du khách trên chuyến tàu mù tăm ấy, chúng tôi lắng nghe tiếng hú từ xa lại, lớn dần, lớn mãi, và vây bọc chúng tôi như đường vòng bay của hải điểu.
Tuy thế mặc dù, chúng tôi đã yêu sa mạc.


Nếu bạn sợ sa mạc chỉ là trống không và vắng lặng, ấy bởi vì nó không chịu hiến thân cho cuộc trăng gió một ngày. Một thôn làng đơn sơ ở xứ mình cũng đã ngại ngùng nép mặt. Nếu ta không vì nó mà từ bỏ những thứ khác bên ngoài, nếu ta không chịu vào trong thói nhà phỉ phong truyền thống nó, không chịu theo tập tục của nó, không chịu chia xẻ những cạnh tranh, những kháng cự dữ dàng theo thói của nó, chúng ta sẽ hoàn toàn chẳng biết chút gì về cái cõi quê hương mà thôn làng đó lập riêng cho một vài người. Phải thế chăng? Cách ta vài bước, một kẻ sống ẩn thân trong tu viện, sống theo những quy tắc, lề lối xa lạ với ta, kẻ đó quả thật cách biệt ta hơn mười vạn hoang vắng quan san, trong một cõi xa xôi không phi cơ nào bay tới được. Ta tìm viếng thăm chi trong hang của họ. Nó trống rỗng. Vũ trụ con người ta là vũ trụ nội tại. Sa mạc cũng vậy, sa mạc không phải chỉ là cát, chỉ là dân Touareg hoặc người Maure, cho dẫu Maure có súng, cho dẫu Touareg có ca-nông.

Nhưng chính bữa nay, chúng tôi vừa trải qua một trận khát. Và cái giếng chúng tôi đã từng biết từ lâu, chính bữa nay, riêng bữa nay thôi, chúng tôi mới thật khám phá thấy nó rạng tỏa mênh mông. Một người đàn bà vô hình cũng có thể gây man mác đầm ấm cho khắp một căn nhà. Một cái giếng cũng vang xa rào rạt, như tình yêu vậy.

Cát ban sơ vốn là hoang vắng. Rồi một ngày lo sợ một trận giặc cướp tới gần, chúng ta đọc trên cát những nếp gấp của tấm áo bao la mà hiểm họa đã tự phủ lên thân mình. Giặc cướp đã biến dạng cát.
Chúng tôi chấp thuận luật tắc của cuộc chơi. Cuộc chơi rèn luyện chúng tôi theo hình ảnh nó. Sa mạc, chính tại lòng ta là nơi nó biểu hiện. Ghé bờ sa mạc là gì? Không phải là vào viếng thăm ốc đảo. Ghé bờ sa mạc là: sùng mộ nguồn nước giếng như một tôn giáo thiêng liêng.


2
Ngay chuyến bay đầu tiên, tôi đã bén mùi sa mạc. Chúng tôi ba người, hai bạn Riguelle, Guillaumet và tôi, rơi sát cạnh đồn binh Nouatchott. Cái đồn nhỏ này ở Mauritaine, thủa đó cô lập như một đảo nhỏ đơn sơ đơn chiếc lạc hồn trong dặm biển. Một người đội già sống biệt lập nơi đây với mười lăm bác da đen Sénégalais. Họ tiếp chúng tôi như tiếp sứ giả nhà Trời.
- A! Được nói chuyện với các anh, thật đáng nên cái đời một cách! Cảm kích lắm. Cảm động lắm.
Viên đội cảm động thật, ông ta khóc:
- Ròng rã sáu tháng nay, các anh là những người thứ nhất tới đây. Sáu tháng một lần, người ta tải lương thực tới cho tôi. Khi thì trung úy, khi thì đại úy. Lần sau cùng, chính là đại úy…
Chúng tôi thì còn đang bàng hoàng. Dakar còn cách hai giờ đường, bữa ăn trưa chờ chúng tôi tại đó, một cái trục long đi, và con người ta cũng đổi luôn định mệnh. Chúng tôi trở thành những thiên thần hiện xuống bên viên đội già đang khóc như mưa giông.
- Này! Các anh uống đi chứ! Mời rượu các anh, lòng tôi vui quá. Các anh nghĩ xem! Lần đại úy tới, tôi chẳng có một giọt rượu nào để mời ngài xơi cả đó.
Tôi ghi chuyện này vào trong một cuốn sách nhưng là chuyện thực, chớ không phải chuyện tiểu thuyết. Viên đội già bảo chúng tôi:
- Lần đó tôi không nâng ly chạm cốc được… Tôi xấu hổ quá nên phải xin đổi đi nơi khác.

Chạm cốc! Chạm mạnh một cốc với một người kia từ trên lưng con lạc đà phóng xuống, nhễ nhại mồ hôi. Suốt sáu tháng tròn, sống là cốt đón chờ cái phút đó. Từ một tháng nay, người ta lau chùi võ khí, quét dọn sạch sẽ lũy hào. Và từ mấy hôm nay, bén mùi đánh hơi, biết là ngày vui sắp lại, người ta leo lên tầng cao để trông chừng về cái phía chân trời, liên miên nhìn không biết mỏi, ngóng chờ xuất hiện cái đám bụi tung lên và cuộn tròn trong đó đội quân di động từ Atar phi về…
Nhưng rượu hết rồi. Hết rượu rồi thì người ta không thể đón mừng ngày hội. Người ta không chạm cốc. Người ta thấy mình mất hết thanh danh. Đời mà đến thế thời thôi. Giờ mong đợi cũng là giờ bỏ đi…
- Tôi nóng lòng chờ đại úy trở lại: Tôi nóng lòng chờ…
- Ông ta hiện đang ở đâu, thầy đội?
Viên đội đưa tay chỉ vào trong cát rộng:
- Làm sao mà biết. Đại úy thì ở khắp nơi.


Đêm hôm ấy cũng là đêm thật, cái đêm chúng tôi nằm khoèo trên chóp lũy mà bàn chuyện ngàn sao. Không còn trông vời đám bụi nữa. Ngàn sao ở đó, đầy đủ sa số hằng hà, như lúc lái phi cơ, nhưng bây giờ đứng im mà vằng vặc.
Ngồi trên phi cơ những đêm trời đẹp quá, người ta lơ đãng bỏ rơi tay lái, và chiếc phi cơ nghiêng dần về phía tả. Tưởng nó vẫn ngay ngắn như thường lệ bay đi, bỗng nhiên người ta chợt ngó thấy một khu làng khang tịnh, khinh khiêu ở dưới cánh phi cơ phía tay phải. Nhưng trong sa mạc không có khu làng. Ắt phải là khu vực của đoàn tàu đánh cá dặm khơi. Dặm khơi nào? Vây bọc Sahara, không có khu vực đoàn tàu dặm khơi chài cá. Vậy thì? Vậy thì người ta đành mỉm cười chuyện nhầm lẫn lộn xộn. Và dịu dàng, xin sửa lại đường bay. Và khu làng ban sơ lại trở về đúng nguyên vị trí. Hồng nhan được trả lại gốc phần. Ta giao lại cho nền trời, chòm sao ta vừa để cho rụng xuống.
Khu làng ư? Vâng. Khu làng thanh tịnh ạ. Khu làng thanh tú, xóm tịnh ngàn sao. Nhưng trên chóp đồn nhỏ, trông lên chỉ còn như một sa mạc giá băng như tê cóng, như những đợt sóng cát im lìm. Những chòm sao gắn chặt ở vòm trời. Viên đội già bảo:
- Này nhé! Tôi thạo phương hướng lắm. Nhắm thẳng theo vì sao này, là thẳng tiến tới Tunis.
- Thầy quê ở Tunis chắc?
- Không. Cô em họ tôi ở đấy.
Im lặng kéo dài rất lâu. Nhưng viên đội không dám giấu chúng tôi một điều gì cả:
- Rồi thế nào cũng có ngày tôi đi Tunis.
Vâng, đi Tunis bằng một con đường khác, chứ không phải nhắm thẳng lên vì sao kia. Trừ phi, trong một cuộc hành trình nào đó, một nguồn giếng cạn không bất ngờ xô ông vào cõi mộng bấn loạn của tình điên. Tới lúc đó, thì cả ngôi sao, và cô em họ, và phố Tunis sẽ hòa chung một trận. Tới khi đó là khởi đầu cuộc viễn du lai láng thần và tiên, mà người phàm vốn tưởng là đau xót.
- Đã có lần tôi xin Đại úy cho phép về Tunis thăm người em gái họ. Nhưng đại úy trả lời rằng…
- Trả lời rằng sao?
- Trả lời rằng: “Trong thế gian này chứa đầy xiết bao là cô em họ gái”. Rồi vì muốn chỉ vẽ lối gần, đại úy cho tôi đi Dakar.
- Cô ấy đẹp chứ, cô em họ thầy?
- Cô em họ ở Tunis? Quyết nhiên là đẹp. Cô ta tóc vàng lơ.
- Cô ở Dakar? Hẳn là chịu sút?
Thầy đội ơi, tôi chỉ muốn ôm hôn thầy vì câu trả lời nửa sầu nửa hận:
- Cô ấy vốn người da đen… chiêm bao bờ cỏ…
Sa mạc của thầy rồi? Phải thế ru? Hay chính một Thần Linh thiên thu về gọi? Hay cũng là nguồn dịu ngọt trong suối tóc hồng vàng, và đìu hiu thân thể của cô em họ xa vời, dặm nghìn nước thẳm ở cách thầy năm nghìn cây số sa mạc bên kia?
Còn sa mạc chúng tôi? Là những gì nảy nở ở trong tôi. Những gì chúng tôi hiểu biết về chính chúng tôi. Trong đêm ấy bọn chúng tôi cũng tha thiết yêu thầm một người em gái họ và một vị quan ba.
3
Ở sát bờ những vùng phiến loạn, Port-Étienne không phải là một thành phố. Một cái lũy, một căn nhà chứa phi cơ, và một cái trạm bằng ván gỗ làm nơi tạm trú cho bọn phi công chúng tôi. Sa mạc ở xung quanh trùng trùng điệp điệp, vì vậy cho nên sa mạc dù Port-Étienne không dồi dào quân khí, nó vẫn là một địa điểm rất khó tranh cường mà thủ thắng. Muốn tấn công nó, phải vượt qua một dãi cát và lửa bát ngát, cho nên bọn loạn quân tiến vào tới nơi thì đã kiệt lực, sau khi đã cạn sạch hết bao nhiêu lương thực và nước súc trữ. Tuy nhiên từ các vùng phương Bắc lại, thường vẫn có một đội loạn quân tiến về phía Port-Étienne. Mỗi lần vị đại úy toàn quyền tới thăm chúng tôi và uống một tuần trà, ông mở địa đồ ra và vạch cho chúng tôi nhìn xem con đường tiến tới của bọn loạn quân, như kể cho chúng tôi nghe chuyện một công chúa nào xưa trong cổ tích. Nhưng đám loạn quân không bao giờ tới đích, họ bị cát ăn mòn hút cạn như hút nước một dòng sông, và chúng tôi gọi họ là loạn quân ma. Mớ đạn nhà cầm quyền cho chúng tôi mỗi đêm, vẫn nằm yên ổn ở dưới chân giường, trong thùng chứa. Và chúng tôi chẳng có địch thủ nào để đấu chọi, ngoài sự chiến đấu với vắng vẻ, chúng tôi chẳng có gì che chở ngoài sự che chở bảo đảm nhất, là nỗi cùng khốn của mình. Và Lucas, chỉ huy sân bay, chỉ biết có ngày đêm liên miên vặn máy hát, và ở xa vắng quá đối với cuộc đời, máy hát phát những âm thanh nghe chừng như ngôn ngữ lạ, và gây một mối sầu vô cớ, sao lại giống lạ lùng mối u sầu những khi khát nước dưới trời xanh.

Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong lũy, vị đại úy toàn quyền mời chúng tôi thưởng ngoạn thửa vườn ông. Ông đã nhận được từ Pháp gửi sang, ba thùng đất đã vượt bốn nghìn cây số để tới đây. Trên đám đất ấy bây giờ đã mọc ba chiếc lá xanh, chúng tôi đưa ngón tay mân mê như mân mê những hòn ngọc. Nói tới đó, vị đại úy bảo: “Thửa vườn của tôi đó”. Và mỗi khi gió cát thổi qua, thổi cháy hết vạn vật, thì người ta mang thửa vườn đi giấu kỹ ở dưới hầm.
Chúng tôi ở cách pháo đài một cây số, lúc ăn xong, chúng tôi quay trở về, đi dưới bóng trăng. Dưới bóng trăng, cát điểm màu hồng. Chúng tôi cảm thấy mình xác xơ, nhưng cát điểm màu hồng. Nhưng một tiếng gọi của lính canh bỗng xô bi thống vào giữa cõi miền. Đó là toàn bãi Sahara đang rùng mình nhìn thấy bóng chúng tôi, và lên tiếng hỏi, vì một đám loạn quân cũng đương tiến về.
Trong tiếng kêu của người lính canh, tất cả mọi âm thanh của sa mạc vang dội về một lúc. Sa mạc không còn là một ngôi nhà vắng: một đoàn người Maure truyền từ khí cho đêm trường.
Chúng tôi có thể tưởng mình được yên lành. Thế nhưng! Bệnh tật, tai nạn, loạn quân, bao nhiêu hăm dọa đương lò dò bước tới! Con người là cái đích trên mặt đất để cho những cung tên ẩn kín bắn tới. Và người lính canh da đen vừa nhắc lại điều đó, như một tiên tri.
Chúng tôi đáp: “Chúng tôi là người Pháp!” và bước qua trước các vị thiên thần đen. Và hô hấp dễ chịu hơn. Mối hăm dọa kia đem lại cho chúng tôi một niềm cao nhã. Ô còn xa lắm lắm, chẳng cấp bách gì, còn bị ngăn chặn hòa hoãn bởi cát bãi mênh mông: nhưng thế giới không còn như trước. Sa mạc đã trở thành lộng lẫy xiết bao. Một đội loạn quân cất bước đi đâu đó, dẫu không bao giờ tới được tại đây, đã đem về cho sa mạc một thần tính thiêng liêng.
Bây giờ đã mười một giờ đêm. Lucas từ máy vô tuyến đến cho tôi hay là phi cơ Dakar sẽ tới lúc nửa đêm. Trên tàu vô sự. Mười hai giờ mười, thư từ trên tàu đó sẽ chuyển sang xong xuôi tại tàu tôi, và tôi sẽ cất cánh về phương Bắc. Trước tấm gương sứt mẻ, tôi chăm chú cạo râu. Thỉnh thoảng giữ nguyên khăn choàng cổ, tôi bước lại bên cửa nhìn ra mặt cát bên ngoài. Trời tốt, nhưng gió đã ngừng thổi. Tôi trở lại bên tấm gương. Tôi suy nghĩ mông lung. Một thứ gió thổi, thổi cho hàng tháng, nếu bỗng dưng mà ngừng, ắt phải làm rộn cả thinh không. Bây giờ, tôi đeo vào người: các thứ đèn cấp cứu đeo vào nịt lưng, máy đo độ cao, bút chì. Tôi đi tìm Néri, anh bạn vô tuyến tối nay trên tàu. Anh cũng đương cạo râu. Tôi hỏi: “Không sao?”. Lúc này, vâng, mọi sự không sao. Công việc soạn sửa này là công việc ít khó nhọc nhất của chuyến bay. Nhưng tôi nghe một tiếng sè sè, một con chuồn chuồn sa mạnh vào chiếc đèn bấm ở nịt lưng. Không hiểu sao, nó làm tôi nao dạ.


Tôi ra ngoài nhìn: cảnh vật trong suốt. Một mô đất bọc sân bay nổi bật trên nền trời, như giữa ban ngày vậy. Trên sa mạc, bầu không khí vắng vẻ yên tịnh bao trùm. Nhưng khi đó, hai con chuồn chuồn và một con bướm lục chạm đầu vào đèn bấm của tôi. Một lần nữa, tôi cảm thấy nao lòng, một nỗi gì khó hiểu, có lẽ là niềm vui, có lẽ là lo sợ, từ đáy thẳm trỗi dậy, còn rất mơ hồ, nhưng khe khẽ báo hiệu. Kẻ nào từ xa xăm đang nói gì với tôi. Phải là linh tính chăng? Tôi lại bước ra: gió đã ngừng hẳn. Trời vẫn mát dịu. Nhưng tôi đã đón nhận lời khuyến cáo. Tôi đoán chừng, tôi tưởng đoán ra điều tôi chờ đợi: đúng chăng? Cả bầu trời, cả mặt cát cũng không cho tôi dấu hiệu gì, nhưng hai con chuồn chuồn đã lên lời, và một con bướm lục.
Tôi trèo lên đụn cát, và ngồi hướng mắt về phía Đông. Nếu tôi đoán không lầm, thì “cái đó” chẳng còn chậm mấy đâu. Hai con chuồn chuồn kia tới đây tìm gì? Từ những cụm cây xanh giữa sa mạc, vượt hàng trăm cây số, tới đây tìm gì?
Những mảnh nhỏ dạt dào bờ biển, báo cho biết rằng bão tố đương nổi cơn cuồng nộ, ngoài khơi. Thì mấy con côn trùng này cũng nói cho tôi biết rằng một trận bão cát đương lên đường; một trận bão cát dậy từ phương Đông, đã xô đuổi ra khỏi những bãi kè bao nhiêu đời bướm lục. Bọt bèo của giông bão đã bay tới chạm vào tôi. Và trầm trọng vô cùng vì đó là một bằng chứng, và trầm trọng vô cùng vì đó là hăm dọa lớn lao, và trầm trọng vô cùng vì nó chứa trong mình một cơn bão tố, gió Đông đang dậy đây rồi. Cơn gió xa xôi, tôi ở đây đón chút hơi thở nhẹ. Sóng động nghìn trùng, tôi ở đây là điểm tận đợt sóng trào qua. Hai mươi thước phía sau tôi, không một sợi tơ nào run rẩy. Hơi nồng trận gió quyện lấy tôi một lần, một lần thôi, thoáng qua như chừng đã tắt. Nhưng tôi biết rằng những phút giây sắp tới, Sahara sẽ dậy cơn lần nữa, và thở đợt thứ hai. Không tới ba phút nữa thì con diều gió trên nóc nhà chứa sẽ động mình phe phẩy. Và mười phút nữa, cát bãi sẽ tung trời. Chốc nữa tôi sẽ cất cánh trong biển lửa này, lửa sa mạc sắp trở về thiêu nướng.


Nhưng đó không phải là điều kích động tôi. Điều xui tôi hứng thú tràn trào trong niềm vui man dại, ấy là đã thấu hiểu một ngôn ngữ bí mật qua một vài tiếng ngập ngừng, ấy là đã đánh hơi theo đuổi được một dấu vết, không khác chi con người thái cổ chỉ nghe qua những tiếng động âm thầm, cũng đoán được cả tương lai đương báo hiệu, ấy là tôi đã đọc được cơn thịnh nộ của trời đất trong đôi cánh đập của một con chuồn chuồn.
4
Ở đó, chúng tôi đã từng liên lạc với những người Maure nghịch loạn. Từ những miền sâu cấm địa, họ mò ra những miền chúng tôi đã vượt qua bằng phi cơ; họ lần mò men tới tận lũy Juby hoặc Cisneros để mua bánh mì, đường hoặc chè uống, rồi quay trở về chìm trong bí mật của mình. Những lúc gặp họ, chúng tôi có thử gắng cảm hóa một vài người.

Nếu là thủ lĩnh có ảnh hưởng quan hệ, đôi lúc chúng tôi chở họ lên phi cơ� để chỉ cho họ xem cảnh tượng thế giới. Cũng là để đánh chìm lòng kiêu ngạo của họ. Bởi vì chúng tôi biết sở dĩ họ giết hại tù nhân, ấy không phải vì căm hờn, mà do lòng khinh bỉ. Gặp chúng tôi ở quanh quẩn đồn lũy, họ cũng chả thèm chửi rủa. Họ chỉ quay mặt đi, và khạc nhổ. Lòng kiêu hãnh đó chính do ảo tưởng mình mạnh mà ra. Bao nhiêu người trong bọn họ, từng tổ chức được những đội quân ba trăm tay súng, đã nhiều  lần bảo chúng tôi: “Nước Pháp các anh tốt phúc lắm vì ở xa chúng tôi hơn một trăm ngày đường”.

Chúng tôi chở họ đi ngoạn cảnh, và thế là lần hồi đã có ba người sang viếng nước Pháp xa xôi. Họ thuộc dòng giống những kẻ một lần theo tôi sang Sénégal, đã khóc ầm như mưa lúc được nhìn cây cối lần đầu tiên trong đời.
Lúc gặp lại họ trong những căn lều vải, họ ca tụng mãi những rạp ca vũ với những đàn bà khỏa thân nhảy múa giữa hoa tươi. Đó là những người chưa bao giờ từng nhìn thấy một gốc cây, một cái lá cỏ, một mạch nước giếng, một đóa hồng. Họ chỉ biết, qua kinh thánh Coran, là có những khu vườn và khe suối chảy, đó là tên họ gọi cảnh Thiên Đường. Thiên Đường ấy và những nàng Tiên diễm lệ trong đó, sẽ mở cửa đón mời người ta, người ta sẽ nhận phần thưởng đó bằng cái chết xót xa trên cát quạnh, do phát đạn của người ngoại đạo, sau ba mươi năm gian khổ khốn cùng. Nhưng Thượng Đế phỉnh phờ bọn họ, vì Thượng Đế cho người Pháp hưởng mọi hoan lạc kia mà chẳng đòi hỏi gì hết; không cần phải trả bằng đói khát, không cần phải trả chủ bằng cái chết điêu linh. Thế nên bây giờ họ mơ tưởng, họ mơ tưởng mãi, những tù trưởng già… Thế nên chi bây giờ nhìn ra bốn xung quanh căn lều cho tới mãn đời mình, dãi Sahara chỉ hứa hẹn những lạc thú quá mong manh, họ ngậm ngùi thả cái linh hồn buông ra câu tâm sự.
- Này này… Thượng Đế của người Pháp… Thượng Đế của người Pháp rộng rãi với người Pháp hơn là Thượng Đế của người Maure đối với người Maure!
Vài tuần trước đấy, họ đã được đưa đi viếng vùng Savoie. Người dẫn đường đưa họ tới trước một thác nước mạnh, đổ xuống xoáy tít ì ầm.
Người ta bảo họ:
- Các ông uống thử đi.

Và thấy là nước ngọt. Nước! Tại quê hương họ, muốn tìm tới một cái giếng gần nhất, phải tốn bao nhiêu ngày đường. Và nếu tìm ra, còn phải mất bao nhiêu thì giờ đào cho xong lớp cát lấp ngang miệng giếng, mới bắt gặp mớ bùn lầy pha lẫn nước tiểu của lạc đà! Nước! Ở Cap Juby, ở Cisneros, ở Port-Étienne, bọn trẻ con người Maure không xin tiền bạc, chúng chìa một hộp thiếc ra để xin chút nước:
- Cho xin chút nước, cho xin…
- Nếu mày ngoan.


Nước quý hơn vàng, mỗi giọt tí hon cũng đủ làm nảy lên tia lóe xanh lục của ngọn cỏ giữa bãi cát khô khan. Mỗi khi có trận mưa đâu đó, người ta đổ xô nhau tìm tới. Sa mạc rộn ràng. Từng bộ lạc kéo nhau đi tìm ngọn cỏ sẽ mọc nơi nào, cách chừng ba trăm cây số xa kia… Thứ nước đó, hiếm hoi là thế, hẹp lượng vô cùng, từ mười năm nay chưa rơi một giọt xuống Port-Étienne, thứ nước đó bỗng ì ầm tuôn trào tại xứ xa kia, nghe như chừng bao nhiêu kho nước quý của trần gian bỗng tuôn ra từ một cái thùng nước vỡ.
- Ta đi xem nơi khác! Người dẫn đường bảo.
Nhưng họ không nhúc nhích.
- Cho chúng tôi nán lại chút nữa…
Họ yên lặng, đăm chiêu, không lời, không tiếng, trước cảnh bí mật trang nghiêm đang phơi bày cuồn cuộn. Cái thứ của lạ này, từ trong lòng núi ồ ạt đổ ra, đó là sự sống, đó là máu huyết con người. Chảy một giây thôi, cũng đủ cứu sống hàng bao nhiêu đoàn người đi trong sa mạc, khát nước như điên cuồng, liên miên đi mãi, lao mình vào giữa vô tận của những hồ nước muối và những chập chờn ảo tưởng mà thôi. Tại nơi đây, Thượng Đế hiển hiện: không lẽ gì ta đành quay lưng đi cho được. Thượng Đế mở rộng các bờ đập của ngài và tỏ rõ quyền uy cho thiên hạ thấy: ba người Maure đờ đẫn đứng im lìm.
- Các ông còn muốn xem chi nữa? Đi thôi…
- Phải chờ đã.
- Chờ gì?
- Chờ xong.
Họ muốn chờ cái lúc Thượng Đế mỏi, không còn hoang phí nữa. Thượng Đế vốn người hà tiện, Ngài mau ân hận lắm.
- Nhưng thác nước này chảy tự nghìn năm!…
Thế nên tối nay họ không muốn bàn bạc nhiều về thác nước. Vì có những phép lạ, mình nên tránh nói tới là hơn. Cũng nên tránh suy nghĩ tới quá nhiều, nếu suy nghĩ nhiều thì chẳng còn biết hiểu ra cái gì làm sao nữa nữa. Suy nghĩ nhiều, e phải hoài nghi Thượng Đế mất thôi…
- Thượng Đế của người Pháp, anh thấy đó…
Nhưng tôi hiểu họ vô cùng, những bạn man di kia. Họ ngồi đấy, bàng hoàng trong niềm tin dao động, họ bối rối ngổn ngang, và từ đây nao núng sắp chịu quy phục rồi. Họ ước mơ được quân lương bộ Pháp tiếp tế lúa mạch cho, và được quân đội Pháp ở Sahara bảo đảm an ninh cho. Và một phen chịu quy thuận rồi, thế nào họ cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi vật chất.
Nhưng cả ba người đều thuộc dòng dõi El Mammoun, tù trưởng bọn Trarza. (Tôi e mình nhầm lẫn tên ông).
Tôi có biết ông này thủa ông còn thần phục chúng ta. Ông được đặc biệt trọng đãi vì những công trạng lập nên, ông trở nên giàu có vì được các vị thống đốc nâng đỡ, các bộ lạc kính nể ông, những của cải thế gian dường như ông không thiếu một thứ nào cả. Nhưng một đêm kia, không ai ngờ được, không một dấu hiệu gì báo trước, bỗng nhiên ông tàn sát các sĩ quan cùng đi với ông vào sa mạc, cướp hết lạc đà, súng ống, rồi chạy về tái hội với những bộ lạc chưa quy hàng.
Người ta gọi những sự nổi loạn thình lình như vậy là phản trắc – những cuộc đào vong vừa oanh liệt vừa tuyệt vọng của một người tù trưởng từ nay chịu lưu đày trong sa mạc; người ta gọi là phản trắc, chút vinh quang ngắn ngủi kia, nó sắp chìm tắt mất rồi như một đốm lửa tàn, lúc chạm phải đội quân di động từ Atar về. Và người ta ngạc nhiên trước những hành động điên rồ nọ.
Tuy nhiên câu chuyện của El Mammoun cũng là câu chuyện của nhiều người Ẳ rập khác. Mỗi ngày mỗi già thêm. Và khi trở về già, người ta suy gẫm. Rồi một đêm u buồn, chợt thấy mình đã phản bội chúa Hồi giáo, chợt thấy mình đã làm chuyện đê hèn, đã làm hoen ố bàn tay mình trong bàn tay người Thiên chúa giáo, lúc đưa tay kí kết bản đính ước một cuộc đổi trao, trong đó mình chịu thiệt thòi toàn diện.
Và gẫm ra cho kỹ, lúa mì và hòa bình đối với ông nào có nghĩa lý gì… Chiến sĩ sa cơ biến thành mục phu lây lất, chợt não nùng hồi tưởng lại và nhớ ra xưa kia đã từng sống trong một dải Sahara bát ngát, mà mỗi một nếp cát mỗi chứa chan những hăm dọa ẩn dấu trong mình, mỗi một đồn quân đóng trại trong đêm sâu mỗi rình rập quân nhạc, lẩn khuất những chòi canh với lính gác tuần phòng, nơi chốn của những tin đi, tin lại, tin về cấp báo những điều động của địch quân, nơi chốn của những quả tim nhảy phập phồng chung nhịp, quanh những ngọn lửa hồng đỏ rạng ban đêm. Đó là cái hương vị trùng khơi biển rộng, làm sao ai quên được, nếu một lần đã có nếm qua.
Chợt ngó lại bây giờ tấm thân lơ láo lạc loài, bước quẩn quanh trong một vùng yên định không còn một chút uy phong. Chính bây giờ, chỉ bây giờ thôi, dải Sahara mới thật sự là sa mạc.
Nhưng sĩ quan mà ông sẽ giết, có lẽ ông vẫn tôn sùng. Nhưng tình thương Allah trên hết.
- Chúc ông ngon giấc El Mammoun.
- Thượng Đế phù hộ cho ngài.
Những sĩ quan cuộn tròn trong chăn nệm, duỗi dài thân trên cát như một chiếc bè, ngửa mặt lên trời sao. Ngàn sao chầm chậm quay tròn, một vòm trời đương điểm giờ trên đó… Đây vừng nguyệt chênh vênh trên bãi cát, được dìu về hư không do Chân Như dẫn dắt. Những người Thiên Chúa giáo sắp ngủ say rồi. Vài phút nữa thôi, trên vòm kia chỉ còn lại ngàn sao lấp lánh. Thì lúc đó, muốn cho các bộ lạc suy đồi được thiết lập trở lại trong vòng lộng lẫy ban sơ; thì lúc đó, muốn cho những cuộc chạy thi gan rượt đuổi cùng một lúc dấy lên cho tưng bừng cát bãi, thôi chỉ cần một chút xíu đưa tay, thôi chỉ cần cái tiếng kêu yếu ớt của những người Thiên chúa giáo bị bóp nghẹt hơi thở, bị nhận chìm hồn phách trong giấc ngủ của họ mê man… Chỉ vài giây nữa thôi, và từ sự vụ bất khả vãn hồi kia, một vũ trụ tân kỳ sẽ xuất hiện.
Và từ đó, những sỹ quan lộng lẫy ngủ ngon kia bị sát hại


5
Hôm nay tại Juby, hai anh em Kemal và Mouyane mời tôi một tuần trà trong căn lều của họ. Mouyane lặng lẽ nhìn tôi; tấm mạng xanh kéo trùm kín miệng, Mouyane giữ một thái độ dè dặt man di. Chỉ Kemal ân cần tiếp chuyện, chén tác chén thù:
- Lều vải, lạc đà, cả vợ tôi và các nữ tỳ của tôi, đều là của ông cả đấy.
Mouyane mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi, nghiêng mình về phía anh hắn, ghé môi thì thầm vài tiếng, rồi nín lặng.
- Anh ấy nói gì thế?
- Hắn bảo: “Bonafous đã cướp mất một nghìn con lạc đà của bọn R’Gueibat”.
Đại úy Bonafous, sĩ quan lạc đà binh trong đội quân đóng tại Atar, tôi không quen biết ông ấy. Nhưng được biết tiếng tăm lỗi lạc của ông chấn động trong đám người Maure. Người Maure nói về ông với một niềm phẫn nộ, nhưng lại xem ông như một loại thần linh. Sự hiện diện của ông làm cho cát sa mạc trở thành “có hạng”. Hôm nay ông lại vừa xuất hiện lần nữa, chẳng ai rõ bằng cách nào, mà lại đánh tập hậu bọn loạn quân đang tiến về phía Nam, và cướp mất hàng trăm con lạc đà của họ, buộc họ phải quay lưng chống trả, hầu có giải cứu những kho tàng từng được phòng giữ rất nghiêm, tưởng không lọt vào tay ai được. Và bây giờ, khi đã giải cứu Atar bằng cách đột ngột xuất hiện của thiên thần thượng đẳng, khi đã đóng yên quân trên một gò đá vôi cao rộng, ông ngang nhiên đứng lầm lì trên đó, như khiêu khích thiên hạ bốn bề có giỏi thì tới ăn thua chơi, và hào quang ông chiếu tỏa tới độ nào mà các bộ lạc đua nhau kéo tới rùng rùng chịu chơi trước ngọn đoản kiếm của ông.


Mouyane nhìn tôi khắc nghiệt hơn và nói nữa.
- Anh ấy nói gì?
Hắn bảo: “Chúng tôi sáng mai sẽ đi đánh Bonafous. Ba trăm cây súng”…
Tôi đã đoán chừng ắt phải có chuyện chi đây. Từ ba hôm nay, những lạc đà được dắt tới giếng, những bàn tán gần xa, dằng dai chuyện vãn, những phấn khích nhiệt tình… Như sửa soạn sắp đặt lèo lái cho một chiếc thuyền vô hình nào đương rục rịch ra khơi. Và gió biển đã lên, đã rì rào bốn ngả, cơn gió nồng sắp dìu dập thổi căng buồm xô thuyền rẽ sóng ra đi. Chính bởi có Bonnafous mà mỗi bước tiến về Nam là mỗi bước lừng vang oanh liệt. Và tôi không còn biết biện biệt thế nào là yêu đương hay thù hận chất chứa trong những cuộc lên đường chinh phạt nhau kia.
Có một kẻ thù lộng lẫy dường ấy ở giữa trần gian để mà sát hại – còn gì tráng lệ cho bằng. Nơi nào y xuất hiện đột ngột, là nơi đó các bộ lạc gần gũi vội vã tháo lều xếp gió, tập trung lạc đà phăng phăng chạy trốn, để tránh cuộc đối diện không lành, nhưng những bộ lạc ở xa thì lại choáng váng ngất ngây như ngất ngây trong cơn tình ái vậy. Người ta giũ áo lên đường, lìa bỏ đời sống yên vui trong lều vải, từ khước lạc thú ôm ấp vợ, nồng da mịn lá, từ bỏ giấc ngủ tê mê, vì người ta chợt thấy: không có gì ở trần gian đáng giá cho bằng cái việc: sau hai tháng trời liên miên đi mãi, đi kiệt sức về Nam, chịu đói, chịu khát, chịu dừng chân thu hình lăn lóc chờ mong giữa gió cát lên cơn, rồi bất thình lình một sớm tinh sương được chạm trán với đội quân di động Atar, và tại đó, nếu Trời Phật giúp cho, sẽ lấy đầu tên Đại úy Bonnafous một mẻ.
- Bonnafous mạnh tợn. Kemal thú thật với tôi.
Bây giờ tôi biết niềm riêng bí ẩn của họ rồi. Những gã đàn ông ao ước đàn bà, một kiều diễm phụ nữ, thôi thì liên miên mơ tưởng tới gót ngọc hờ hững dạ du, rồi thuê hoa dệt bướm, canh trường thao thức trằn qua trở lại, đau đớn xót xa, máu tim cháy bỏng từng cơn, nhịp theo gót chân đi hờ hững, và hỡi ôi! gót về hờ hững dội mãi vào cơn mộng mà tiếp tục đi mãi gót dạ du… Thì theo lối đó, bước chân xa xôi của Bonnafous cũng đang dày vò tâm linh nọ. Đi bọc hậu những toán kiêu binh tới tấn công mình, cái vị chỉ huy theo Thiên chúa giáo kia, ăn mặc theo lối người Maure cầm đầu hai trăm tên cướp người Maure, đã vào sâu trong nội địa của loạn quân, nơi mà tên thuộc hạ hạng tồi nhất của ông cũng rất có thể động cơn dấy loạn, trút bỏ nghiệp tôi đòi, mà không tội lỗi gì cả, vì đã thoát mọi ràng buộc của luật tắc người Pháp, nơi mà bọn bộ hạ rất có thể lén cắm vào lưng ông một nhát dao, hy sinh ông để tế Thần Linh của mình trước bàn thờ bằng đá vàng ở chính nơi đó, chỉ riêng uy phong của ông là kiềm chế họ, và ngay cả nhược điểm của ông của xui họ kinh hoàng. Và đêm nay, đi giữa giấc ngủ bọn họ với những ngáy khò, ông vẫn hừng hờ bước qua bước lại, và tiếng chân ông vang dội vào tới tận giữa lòng sa mạc hoang liêu.

Mouyane ngẫm nghĩ, trầm ngâm ở cuối căn lều, im lìm như một pho tượng bằng đá lục hoa cương. Chỉ hai con mắt là long lanh sòng sọc, và mũi dao bạc không còn là một thứ đồ chơi. Anh đã thay đổi xiết bao, kể từ ngày gia nhập kiêu binh! Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cao cả của mình như bữa hôm nay, anh nhìn tôi như muốn ép giập tôi dưới làn nhãn quan chứa đầy khinh bỉ; bởi vì anh sắp tìm tới Bonnafous để đọ tài, bình minh hôm sau anh sẽ lên đường, thôi thúc bởi mối căm hờn mang đủ đầu những dấu hiệu yêu thương.
Một lần nữa, anh ghé vào tai người anh thì thầm, và đưa mắt ngó tôi.
- Anh ấy nói gì?
- Nó bảo nó sẽ bắn ông một phát, nếu gặp ông ở xa đồn lũy.
- Vì sao vậy?
- Nó bảo: “Ông có phi cơ, ông có vô tuyến, ông có Bonnafous, nhưng ông không có chân lý”.
Mouyane im lìm trong mớ khăn xanh trùm phủ, không nhúc nhích giữa những nếp gấp bất động như những lằn xếp trên xiêm áo tượng đá, Mouyane đã phán xét tội trạng tôi:
- Hắn bảo: “Ông ăn rau hau háu giống như dê cái ăn rau, ông ăn thịt heo ngốn ngấu như heo nái ăn thịt heo. Đàn bà xứ ông không biết xấu hổ, sẵn sàng phơi cái mặt mo ra”, hắn có gặp cái loại đàn bà đó. Hắn bảo: “Ông không cầu nguyện bao giờ”. Hắn bảo: “Phi cơ của ông, vô tuyến của ông, Bonnafous của ông, có giúp ông nên cái tích sự gì, nếu ông không có cái chân lý?”
Và tôi phải chinh phục anh chàng Maure này, anh không bảo vệ tự do anh, vì trong sa mạc bao giờ người ta cũng tự do, anh không bảo vệ những của cải, những kho tàng hữu hình nào cả, bởi vì sa mạc nó trống không, anh chỉ bảo vệ một sơn hà bí ẩn. Trong cõi tịch liêu sóng cát, Bonnafous đang điều động đội quân mình như một tên hải tặc lịch duyệt, và nhờ gã đó mà chốn dừng chân đóng trại tại Cap Juby này bỗng dưng không còn là cõi cư trú cho bọn chăn nuôi nhàn rỗi. Giông bão Bonnafous xô về, đè nặng một bên hông, vì Bonnafous mà người ta phải thu hẹp lều vải mỗi đêm hôm. Vắng lặng cõi trời Nam, ôi não lòng làm sao là cơn vắng lặng: vắng lặng Bonnafous, do linh hồn Bonnafous thao túng! Và liệp hộ Mouyane, thiệp liệp giang hồ, đương im lìm lắng nghe Bonnafous dấn gót chân dội vào lòng gió.
Ngày sau Bonnafous sẽ trở về đất Pháp, thì quân thù của ông sẽ chẳng lấy thế làm mừng. Họ sẽ khóc. Ông bỏ đi đâu, ông đi rồi, thì sa mạc mất đi một từ-cực hấp dẫn, cuộc tồn sinh kẻ ở lại sẽ mất đi một sắc uy phong. Họ sẽ bảo tôi:
- Chớ bảo mần răng mà Bonnafous lại bỏ mà đi như rứa?
- Tôi đâu có biết đâu nào…
Ông đã đem cuộc tử sinh của mình ra liều giữa trận tiền tử sinh của họ, đằng đẵng bao năm. Đem luật tắc sinh tồn của họ làm luật tắc sinh tồn cho mình. Ông đã nằm ngủ nơi đây, gối đầu mình trên đá khô đất họ. Trong cuộc triền miên đuổi bắt nhau dìu dặt, ông cũng như họ, đã từng biết đến những đêm trường Kinh Thánh gồm toàn cát với gió với sao. Thế mà bỗng dưng ông dứt áo ra đi, như bảo chúng tôi biết rằng từ bấy tới nay ông không chơi một cuộc chơi cốt yếu. Ông ngất ngưởng rời bàn, vươn vai bỏ cuộc. Và những người Maure ở lại u buồn, cô đơn trong cuộc chơi dang dở, mất lòng tin ở một lẽ sống không còn đòi hỏi con người phải dấn thân tới kiệt tận máu xương mình. Nhưng họ vẫn muốn còn hoài vọng:
- Lão Bonnafous của ông, lão sẽ còn trở lại.
- Tôi đâu có biết.
Lão sẽ còn trở lại, người Maure tin như thế. Những trò chơi của Âu Châu làm sao mà làm vừa lòng lão được. Những trò chơi của Âu Châu, những cuộc đánh bài lây lất, những quan giai lần lần, những đàn bà vỏ hến… không, không… những thứ đó không thể cầm chân lão ta mãi. Lão sẽ còn trở lại đây, cuộc sống hiên ngang vùng vẫy mất đi sẽ còn ám ảnh lão, nơi đây, mà mỗi bước chân đi là mỗi khua động linh hồn, giục buồng tim nhảy, mỗi bước chân đi trên cát là mỗi bước chân về xứ sở yêu đương. Lão ta tưởng nơi đây chỉ sống điệu lai rai phiêu bạt trăng gió vật vờ, lão ta tưởng về lại xứ kia mới là cõi bờ cốt yếu, nhưng lão sẽ ngao ngán nhận thấy rằng những của quý chân chính, riêng chốn này là chỗ đã cung cấp hết cho lão ta, riêng sa mạc này là nơi lão ta đã sở hữu những kho tàng vô giá: cát bãi oai hùng, trời đêm hoang vắng, quê hương của gió, tổ quốc của ngàn sao. Và nếu Bonnafous sẽ trở lại một ngày nào, thì tin tức kia, ngay đêm đầu tiên, sẽ tràn đi khắp nơi suốt vùng phiến loạn. Người Maure khắp nơi sẽ kháo với nhau rằng lão ta hiện đường nằm ngủ ngon giữa hai trăm tên cướp thuộc hạ, ở một nơi nào đâu đó trong bãi Sahara. Lão ta đương ngủ… Tức thời thiên hạ sẽ khởi sự lặng thinh dắt lạc đà lại giếng. Thiên hạ sẽ soạn sửa lương thực. Thiên hạ sẽ xem xét cẩn thận họng súng. Thôi thúc bởi cuồng nộ căm hờn kia, hoặc thiết tha ân tình nọ.
6
- Hãy lén chở tôi lên một chiếc phi cơ đi Marrakech…
Hằng đêm tại Juby tên nô lệ người Maure kia vẫn nhắc nhở tôi lời khẩn cầu nọ. Sau đó, khi đã cố hết sức mình để được sống, lão ngồi xuống xếp bằng tròn và pha trà cho tôi. Thế là kể từ đó, lão thanh thản được trong một ngày, vì theo lão nghĩ: mình đã phó thác mình cho vị thầy thuốc duy nhất có thể chữa lành mình, mình đã khẩn cầu vị thần linh duy nhất có thể giải cứu mình. Từ đó nghiêng thân trên ấm nước, lão nghiền ngẫm lại những hình ảnh đơn giản của đời mình, những đồng đất đen miền Marrakech, những ngôi nhà hồng tươi, những của cải giản đơn mà lão đã bị người ta tước đoạt mất.


Tôi im lặng, lão không lấy thế làm phiền, lão không oán hận tôi sao lại trễ tràng không ban ngay đời sống cho gã; lão nghĩ rằng tôi không phải một người giống lão, mà ấy là một sức mạnh để thúc giục lên đường, để lịch sử tiến tới, một cái gì đó giống như một trận gió lành, sẽ thổi dậy một ngày, hiền hòa đưa đẩy định mệnh của lão đi xuôi thuận.
Nhưng tôi, một phi công trơn trụi, tạm thời vài tháng làm chỉ huy sân bay tại Cap Juby, tất cả tài sản chỉ thu gọn trong một căn lều lơ láo tựa lưng vào thành lũy Tây Ban Nha, với một cái thau, một bình nước mặn, một cái giường quá hẹp bề dài, quá ngắn bề ngang, thì tôi lại không có chút ảo tưởng nào về quyền hành của mình mấy tí:
- Lão Bark ơi, việc ấy, rồi sẽ bàn tới sau.
Một người nô lệ cùng mang tên Bark; vậy lão cũng tên là Bark. Nhưng mặc dù bị bắt đã bốn năm rồi, lão vẫn chưa đành chấp thuận: lão nhớ rằng xưa kia mình đã từng là chúa.
- Hồi ở Marrakech lão làm chi?
Ở Marrakech, chắc vợ con lão bây giờ còn sống, lão đã từng làm cái nghề thật huy hoàng:
- Tôi chăm súc vật từng bầy, và tên tôi là Mohammed.
Các quan tổng trấn tại đó vẫn thường cho lính vời lão tới:
- Ta có một bầy bò muốn bán, Mohammed ạ, lão vào trong núi lùa chúng ra đây.
Hoặc:
- Ta có một nghìn con cừu ở ngoài cánh đồng kia đó, lão còn mạnh giò thì đưa chúng lên đồi cao gặm cỏ.
Hoặc:
- Ta có một trăm con dê cái. Lão hãy đi tìm hộ con dê đực hoa cà về mà thả vào chuồng nọ cho ta.
Hoặc:
- Bầy cừu của ta hôm nay u buồn quá đỗi. Như tuồng chúng nhung nhớ non thẳm rừng sâu. Lão liệu lùa chúng lên dãy Nga My một chuyến. Luôn tiện lão cũng gặp dịp đổi gió một phen.
Bà Bark, tay cầm một nhánh ô liêu như quân quyền vương trượng, uy nghiêm lên đường, thung dung điều khiển đàn súc vật, như một đấng anh tài có toàn quyền tiện nghi bát tiểu, việc ngoài đổng nhung… một mình đảm đương trọng trách việc cai quản cả trăm họ cừu xinh, sao cho chỉnh tề hàng ngũ, gò bớt bước chân con nào đi nhanh quá trớn làm nhọc bạn đồng hành phái yếu đương mang nặng và sắp đẻ đau, hoặc thôi thúc bước chân những con nào biếng nhác… Lão bước đi giữa trăm ngàn nhịp động của trăm ngàn quả tim súc vật tòng phục tin yêu. Một mình lão định đoạt hành trình: một mình lão biết sẽ hướng về “đất hứa” nơi nào; một mình, lão đoán ra bước đi trên dặm đường lúc đăm chiêu đọc hồng vàng tinh tú, thông trải ngọn ngành một khoa học tế vi, đâu có truyền thụ ra cho con cừu thiền quyên nào được; một mình, lão quyết định lúc dừng chân, giờ nghỉ ngơi, khu giải khát, thể theo niềm duyệt lịch của mình. Và đêm về, một mình đứng nguy nga giữa đàn cừu yên ngủ, lão âu yếm nhìn, động lòng nhân ái trước bao nỗi khờ khạo yếu đuối thơ ngây, lão im lìm, lông len ngập tới đầu gối, lão biến thành vị thầy thuốc thời đại bách khoa, tiên tri hiển thánh, vương chúa uy quyền, đương nguyện cầu cho trăm họ cừu ngủ ngon.
Một hôm, gặp bọn người Ẳ Rập tới bảo:
- Theo chúng ta đi tìm súc vật phương Nam.
Người ta dắt lão đi thật lâu, và sau ba ngày, mò vào sâu trong một con đường núi hẻm ở sát cánh vùng phiến loạn, người ta đơn sơ đưa bàn tay ra nắm lấy vai lão, đổi tên lão ra Bark, và bán đứng lão đi.
Tôi cũng quen biết nhiều người nô lệ khác. Hằng ngày tôi tới uống trà trong những căn lều. Chân trần, nằm duỗi dọc thân ra, trên một tấm thảm bằng len thượng hạng, đó là món xa xỉ của người du mục lưu ly, nằm trên đó vài giờ cũng gọi là thiết lập cõi nhà cư lưu một buổi, nằm trên đó tôi lặng nghe ngày trời chuyển dịch. Trong sa mạc, ta nhận ra cái dặt dìu trôi chảy của thời gian. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, người ta cũng nghe mình đương bước tới chiều hôm, bước tới cõi gió xanh sẽ thổi, sẽ tắm gội hình hài và gột rửa mồ hôi. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, thú vật và người ta, cùng rủ nhau một nhịp tiến về cái hồ giải khát lớn rộng đó của hóa công, tiến về đó chắc chắn vững bền như tiến về cõi chết. Và như vậy, sự nhàn rỗi không bao giờ là nhàn rỗi uổng công. Nhàn rỗi là tỉ mỉ êm đềm bước đi bên ngày đẹp, và bất cứ ngày nào lại chả đẹp, như những con đường kiều diễm đưa tới bối rối trùng dương.
Tôi quen biết họ, những người nô lệ ấy. Họ bước vào căn lều lúc thấy chủ mang từ trong hòm của cải ra nào lò, nào ấm, nào ly cốc… từ trong cái hòm nặng nề chứa đầy những đồ vật lai rai một cách! Những ổ khóa vắng chìa, những chậu hoa, mà hoa nào đâu thấy bóng, những tấm gương ba xu, những binh khí cũ kỹ, những thứ gì gì lạc lõng tới đây lửng lơ nhìn cát, kể thật cũng như dường những thứ của phá gia, chút oan gia bọt bèo thuyền đắm trôi dạt cập bờ.


Người nô lệ lặng yên cho củi khô cành héo vào lò, đổ nước vào ấm, phồng má thổi vào lửa nhún nhen, chịu chơi một cách! Đem sức voi hùm di sơn dịch hải, để làm cái công việc của một gái choai choai. Đem gân cốt đại bàng lướt gió mà vin cành thùy liễu gợn tiểu khê. Chàng vẫn giữ cơn yên vui tịch mịch. Chàng ta đâm ra bị cuốn hút trong làn du khoái cuộc chơi: pha trà, chăm sóc lạc đà, ăn cơm vào trong miệng. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, cứ đều đặn bước đi về chiều tối; và dưới cơn băng giá của ngàn sao trơn trụi, cứ mơ màng hoài vọng cái trận nướng của mặt trời thiêu. Hỡi những xứ miền phương Bắc! Các ngươi sướng vô ngần lắm đó, các ngươi biết chăng ru. Trời của các người là trời vần xoay tiết điệu, với nhịp mùa tuần tự kết liên mà tác thành cho ngày hè một hoang đường chiêm bao tuyết bạch, mà tác tựu cho đêm tàn đông lạnh một rạng rỡ mộng trời xanh! Mà tẻ sao là nhiệt đới! Nằm trong lò hấp ngột chẳng thay qua, đổi lại chi nhiều. Mà sướng thay là vẫn dải Sahara này với ngày đêm không ngớt, với đêm ngày cứ liên tục đơn sơ mà đánh nhịp dập dìu cho hồn ai trở cơn lên xuống, tự hoài vọng nọ tới ước mong kia.


Đôi phen người nô lệ da đen, ngồi khoanh chân tròn khoeo trước cửa, phơi linh hồn phiểu diểu trong làn gió hây hẩy. Hoàng hôn êm ái như ru. Lặng nghe dễ khiến thân tù tội mê. Nặng sao vòng hãm tư bề. Làn xanh kỷ niệm không về bãi hoang. Chỉ nghe hiu hắt đôi hàng. Phút giây giờ cũ pha càn đòn đau. Kêu xin, nài nỉ nơi nào. Bàn tay ai đẩy tôi vào chốn nay. Từ đó tới nay? Kể từ những cú đấm túi bụi vào mình, quật mình nhào lăn vào trong đêm âm u hiện tại, kể từ giờ phút đó tới nay, anh chàng chìm thân trong giấc ngủ dị thường, mê sảng mơn man như mù mắt, đâu còn nhìn ra hình bóng những sông dài chậm chảy xứ Sénégal, đâu còn nhìn thấy màu trắng xóa những phố thị Maroc phương Nam, mê sảng triền miên như tai ù, tai điếc, đâu còn nghe nữa những giọng nói quen thân. Anh bạn da đen, anh không đau khổ khốn đốn, anh chỉ như tật nguyền. Một ngày lọt vào vòng tồn sinh động hoạt của người du mục, kết chặt chẽ thân mình vào trong những cuộc xê dịch lưu ly, suốt đời cột da xương mình vào bàn chân vạch ngang, vẽ dọc, xoay tròn của bọn người kia hoạch định trên mặt cát. Anh còn giữ được chi nữa những liên lạc từ nay với quá khứ, với gia đình, với một cô vợ và mấy đứa con, đối với anh giờ đây mọi thứ kia đã chết không khác chi những người đã chết.
Có những kẻ lâu ngày đã sống tình yêu lớn rộng, rồi chợt mất đi, bỗng đôi lúc chán chường niềm cô đơn cao nhã. Họ lai rai ghé lại bên đời, kiếm một tình yêu tầm thường, đem cọ vào làm hạnh phúc. Họ cảm thấy khoan khoái trong đầu hàng, quân vương xin thoái vị nhường ngôi, làm thân ty tiện, man mác làm sao là cái phận phiêu bồng bèo bọt, cơn gió vàng đưa đẩy cái mặn mà cát lũy vào trong vòng tĩnh mịch cỏ nội hoa hèn. Nô lệ hãnh kiêu bằng giàu sang của chủ. Hồn thục nữ bốc hơi nồng bên lượng cả bao dong, dẫu bao là bất thình lình thuận buồm thong dong về một Châu Thai buôn bán.
- Này, này, uống đi, cho mày đấy. Thỉnh thoảng chủ bảo tớ như thế.
Đó là cái giờ chủ ân cần với tớ, nhân vì sự nhọc mệt đã qua cơn, nhân vì trận nóng nướng thiêu đã tan dịu, nhân vì tớ thầy cùng sát cánh bên nhau bước vào cõi trời chiều mát gió. Và chủ ban cho tớ một ngụm trà trong tách đẹp tay nâng. Và kẻ tội đồ đón lấy ly trà lưu ly từng giọt, lệ lưng tròng vì thâm tạ tri ân trĩu nặng, sẽ quỳ xuống mà hôn vào đầu gối hai chân của chủ. Kẻ nô lệ chẳng bao giờ bị đọa đầy trong xiềng xích. Cần chi thế chứ! Hắn trung thành một cách! Hắn ngoan ngoãn cái cõi lòng hớn hở khước bỏ trong thân phận mình một ông vua da đen mất ngôi là thế: hắn hài lòng vô hạn với cái phận bây giờ là một tên nô lệ lờ lững vui sướng xiết bao.

Tuy nhiên một ngày kia người ta sẽ phóng thích hắn. Ấy là lúc hắn đã quá già, sức mấy mà xứng áo xứng cơm, thôi thì thôi cũng chiều lòng, cho mày vô hạn một vòng bước ra. Một chân trời bát ngát tự do! Suốt ba năm ròng, hắn lần mò từ lều này qua lều nọ, luống cuống van xin được gửi thân tôi đòi, mỗi ngày mỗi yếu thêm đi, cho đến cuối ngày thứ ba sức kiệt, lực cùng, nhưng luôn luôn vẫn là ngoan ngoãn, hắn nằm duỗi dài trên mặt cát, hai mắt mở to. Tôi có thấy những người như thế tại Juby, nằm chết trần truồng. Người Maure đi bên cạnh trong giờ họ hấp hối, hấp hối kéo dài. Người Maure chạm vào họ nhưng không tàn nhẫn chi, và bọn trẻ con người Maure nô giỡn bên cạnh tấm thân tàn u ám, và mỗi bình minh chạy tới thăm chơi, coi chừng có còn cựa quậy, nhưng không cười cợt kẻ tớ già. Đó là chuyện tự nhiên, lẽ thường. Không chi lạ. Cũng như bảo: “Anh đã làm việc giỏi, anh đáng được ngủ rồi, thôi thì hãy ngủ đi”. Lão vẫn nằm dài, cảm thấy đói, cái đói gây cơn choáng váng, nhưng không cảm thấy nỗi bất công tàn ác nào đày đọa mình. Lão hòa thân dần dần vào với đất. Mặt trời thiêu đốt, cõi đất đón vào lòng. Ba mươi năm vất vả, rồi cái quyền được ngủ yên, cái quyền về với đất.

Người nô lệ đầu tiên gặp tôi, tôi không nghe than vãn gì: ấy bởi rằng không có ai để trách. Tôi đoán nghe trong hồn gã chút niềm gì như chấp thuận phiêu diêu, mơ hồ man mác, đó nỗi lòng như của một sơn nhân lạc rừng, kiệt lực, nằm duỗi thân trên tuyết, cho phiêu bồng tuyết phủ, cho mộng tưởng về vây. Cái xui tôi bứt rứt, không phải là sự đau khổ của y. Tôi không tin điều đó. Nhưng trong cái chết một con người, một vũ trụ xa lạ chết theo, và tôi tự hỏi những hình ảnh nào đã chìm theo thân họ. Những đồn điền, những cây lá nào của xứ Sénégal, những thành phố trắng vôi, bạc vách nào của miền Nam Maroc đã lần hồi tắt ngấm trong lãng quên. Tôi không biết, không thể nào biết được, trong khối hình hài đen đủi nọ, có lẽ nào chỉ tắt lịm là những khốn cùng khổ nhọc thôi sao; những tầm thường lo lắng trà pha, súc vật lùa tới giếng… tôi không biết… chỉ một linh hồn nô lệ ngủ thôi, hay ấy một con người, chợt hồi sinh trong triều dâng kỷ niệm, đã huy hoàng vĩnh biệt cõi đời, trong viễn tượng nguy nga. Mảnh xương sọ cứng, tôi thấy giống cái rương cũ chứa những kho tàng. Kho tàng gì? Tôi không rõ những gấm vóc nào sặc sỡ, những hình ảnh nào tưng bừng yến tiệc, những dấu tích nào quá cổ hủ giữa khung cảnh nơi này, quá vô ích, quá hão huyền giữa sa mạc này, vẫn còn nguyên trong đó, thoát khỏi vòng chìm đắm điêu linh. Tôi không biết, không biết gì hết cả. Cái hòm rương vẫn còn nằm tại đó, khóa kín, nặng nề. Tôi không biết cái phần nào của cuộc thế đương tàn rã trong con người suốt giấc ngủ khổng lồ của những ngày chung cục đã tàn rụng trong mảnh tâm linh và thể xác nọ đương lần hồi biến thể để trở thành đêm tối và rễ cây.
- Xưa tôi là kẻ mục tử lùa dắt dê cừu, xưa tên tôi là Mohammed…
Bark là người nô lệ da đen đầu tiên tôi gặp đã cưỡng kháng, không chịu buông xuôi. Cái việc bị người Maure tước đoạt tự do, xâm phạm quyền lợi, làm cho lão hoàn toàn trơn trụi trên mặt đất, việc đó chẳng hề gì. Có những bão tố Thượng Đế gây ra, tàn phá trong một giờ bao nhiêu mùa màng công khó của người ta. Nhưng người Maure còn gây điêu linh cho lão một cách trầm trọng hơn nhiều: sâu xa hơn cái việc xâm phạm quyền lợi, tự do, của cải, người Maure đã làm tổn thương tới chính cái con người của lão, người Maure hăm dọa lão ngay trong trung tâm nhân vật lão ta. Và Bark quyết định không chịu đầu hàng, trong khi bao nhiêu nô lệ khác đã không bận lòng thắc mắc, cứ để yên cho chết hẳn trong thân mình cái hình hài một gã chăn cừu lao khổ quanh năm kiếm cơm nuôi sống.
Bark không nằm yên ổn trong vòng nô lệ như người ta nằm yên trong một hạnh phúc tầm thường sau khi đã mỏi mòn chờ đợi. Lão không muốn lấy những thi ân độ lượng của chủ nô lệ làm nên hạnh phúc yên vui của đời nô lệ mình. Lão giữ nguyên cho gã Mohammed vắng biệt, cái ngôi nhà xưa cũ mà y từng đã ở, ngay trong lồng phổi mình. Cái ngôi nhà quạnh hiu vì vắng chủ, nhưng không một kẻ nào khác được phép bước vào. Bark giống như một người đầy tớ canh gác một ngôi nhà, tới ngày bạc tóc, nằm giữa cỏ cây vây bọc những lối đi nẻo về, giữa quạnh quẽ ngậm ngùi, đành chết đi trong niềm chung thủy.
Lão không nói: “Tôi là Mohammed ben Lhaoussin” mà bảo: “Xưa kia tôi tên là Mohammed” vì mơ màng tới một ngày nào đó, nhân vật bị lãng quên kia sẽ hồi sinh, và riêng với cuộc hồi sinh nọ, sẽ xua đuổi xa lìa dáng dấp nô lệ ngày nay. Đôi lần, giữa vắng lặng đêm tăm, bao nhiêu kỷ niệm bỗng ùa về một lúc, dào dạt tràn đầy như một điệu hát tuổi thơ.
Viên thông ngôn người Maure kể lại với chúng tôi rằng: “Nửa đêm, giữa canh khuya, lão nhắc tới thành Marrakech rồi lão khóc”. Ai tránh được những ngậm ngùi hồi tưởng đó, lúc cô đơn! Con người cũ bỗng trở giấc ở trong mình, không báo trước cho hay. Con người cũ thức dậy, vươn vai, duỗi dài tay chân trong tứ chi của lão, mò mẫm tìm cái vú con vợ nằm ở bên hông, giữa sa mạc này không bao giờ có đàn bà bén mảng; Bark lắng nghe tiếng suối chảy ở nơi này là chốn không bao giờ có suối trôi. Và Bark mắt nhắm nghiền, tưởng mình ở một ngôi nhà trắng xóa, đêm đêm ngồi dưới một ngôi sao quen thuộc, chính bây giờ đương ở chỗ thiên hạ cư trú trong những căn lều vải len thô và đuổi theo hồn gió. Mang nặng trong lòng những ân tình thân ái đó, những niềm yêu dấu cũ càng đương bí mật rạt rào lên tiếng như gần gũi đâu đây, Bark tới tìm tôi, Bark muốn bảo với tôi rằng lão đã sẵn sàng, rằng những niềm thân ái của lão cũng đã sẵn sàng, và lão chỉ còn có đi trở về tới quê, là đem ra phân phát. Chỉ cần một dấu hiệu của tôi là đủ. Rồi Bark mỉm cười, vẽ cho tôi cái trước, hẳn là tôi chưa có nghĩ ra:
- Mai sẽ có tàu… Ông giấu tôi trong máy bay đi Agdir…
- Tội nghiệp lão quá!
Vì chúng tôi đương sống trong vùng phiến loạn lộn xộn vô cùng, làm sao giúp lão trốn cho êm? Người Maure ngày sau, sẽ rửa hận như thế nào, có trời mà biết rõ. Cướp bóc và làm nhục nhau như thế, thì chỉ còn có cái nước phải chịu tàn sát kinh hồn. Tôi đã cố tìm cách chuộc lão, nhờ sự môi giới của anh em thợ máy ở đây, Laubergue, Marchal, Abgrall, nhưng người Maure vốn ít khi gặp người da trắng đi tìm mua nô lệ da đen, họ nhân cơ hội hiếm hoi này mà đòi hỏi quá đáng.
- Đủ hai vạn quan tiền mới được.
- Anh đùa chơi đó chớ?
- Coi này, những cánh tay lực lưỡng của lão ta, coi này… Coi này, những bàn chân chữ bát bước đi vạm vỡ, coi này…
Và hàng tháng dài dây dưa thế đó.
Cuối cùng người Maure cũng bớt treo cái giá cao quá, tay với không vừa, và cũng nhờ các bạn hữu ở Pháp giúp vào (nhân tôi có biên thư về kể đầu đuôi sự vụ) và thế là cuối cùng tôi cũng đủ sức chuộc Bark ra.


Cuộc thương lượng cũng dàng dinh rậm đám thật. Kéo dài tám ngày. Tám ngày tròn ngồi vòng quanh trên cát cò kè thêm bớt, mười lăm người Maure với tôi, hỏi lại, đáp qua… Một người bạn của chủ nô lệ và cũng là bạn của tôi, anh Zin Ould Rhattari tay tổ trong làng cướp, đã bí mật giúp tôi. Theo lời dặn dò của tôi từ trước, anh ta nắn nót thật hay:
- Bán đi, bán hắn đi cho rồi, không bán thì rồi cũng tới ngày mất toi cả mà thôi. Hắn bịnh tật lắm. Con bịnh chưa lò đầu ra, nhưng nằm âm ỷ trong tỳ vị hắn. Đột ngột một ngày, nó nổ bùng một cái, là đi đời của cải nhà ma. Bán đi, bán hắn cho người Pháp mang đi cho rồi.
Tôi cũng có hứa thưởng một tên cướp khác nữa, Raggi, nếu anh ta giúp vào cho nên chuyện, và Raggi tìm cách lung lạc người chủ:
- Bán đi mà lấy tiền về mua lạc đà, mua súng, mua đạn, cho nhiều nữa càng tốt chớ sao. Rồi mà rục rịch đem quân đánh Pháp chơi một trận. Đuổi nhau tới Atar, rồi tha hồ mà bắt lấy ba hoặc bốn tên nô lệ mới toanh mà mang về. Trút quách cái của nợ này đi. Nó già như một thằng thi sĩ cỗi.
Và người ta bán Bark cho tôi. Tôi đưa lão về khóa kín lại trong lều luôn sáu ngày, bởi vì nếu thả lão lang thang ra ngoài trước ngày tàu đến, thì người Maure ắt sẽ bắt lão trở lại và bán lão một lần nữa, ở một nơi xa.
Giam thì giam, nhưng tôi cởi lốt nô lệ cho lão. Đó cũng là một cuộc lễ long trọng. Vị giáo thánh tới, người chủ cũ tới, viên tổng trấn tại Juby là Ibrahim cũng tới. Ba tay tổ bợm này, nếu gặp lại lão Bark ở cách đồn lũy hai mươi thước, ắt là dám cắt đầu lão ta như bỡn, dù chỉ là để chơi khăm tôi một vố cho bõ ghét mà thôi, thế mà lại bước tới tưng tiu lão Bark, lũ lượt ôm lấy mà hôn thật nồng nàn, và cầm bút ký tên vào tờ khế ước.
- Bây giờ mày là con ta.
Cũng là còn của tôi nữa, theo luật Pháp.
Và Bark hôn tất cả các người cha.
Lão sống trong căn lều một cuộc dịu dàng giam hãm cho tới ngày lên đường. Lão bảo tôi tả mãi cho lão nghe, hai mươi bận mỗi ngày, cuộc hành trình dễ dàng sắp tới: lão sẽ bước xuống phi cơ tại Agadir, và tại đó, người ta sẽ trao cho lão một cái vé Ô-tô-ca đi Marrakech. Bark đóng vai tuồng người tự do, như trẻ con chơi trò thám hiểm: cái bước đi hướng về cuộc sống, cái chuyến ô-tô-ca, những đám người đông đúc, những phố phường lão sắp nhìn trở lại…
Laubergue thay mặt Marchal và Abgrall tới tìm tôi. Không nên để cho Bark xuống phi cơ rồi chết đói. Bọn họ gửi cho Bark một nghìn quan, nhờ tôi đưa lại; như vậy Bark có thể sống mà tìm công ăn việc làm.
Và tôi nghĩ tới những bà già trong những hội phước thiện, mỗi khi làm phước bố thí hai mươi quan thì đòi hỏi lòng tri ân đầy đủ. Các anh thợ máy phi cơ Laubergue, Marchal và Abgrall, đem cho một nghìn quan, không theo lối bố thí làm phước, lại càng không có ý đòi hỏi cám ơn. Họ cũng không vì lòng thương hại, như những bà kia cho của và mong phúc lộc về sau. Họ chỉ muốn một điều giản dị: trả lại phẩm cách con người cho một con người. Cũng như tôi, họ quá hiểu rằng, sau cái cơn đê mê được về quê cũ, người bạn đầu tiên trung thành sẽ bước tới chào đón Bark là cô nàng tên gọi là túng quẫn, và trong vòng ba tháng tới đây, lão sẽ phải lao khổ hì hục trên những đường hỏa xa mà ì ạch bứng gốc đường rầy. Lão sẽ vất vả hơn lúc còn ở sa mạc bên chúng tôi. Nhưng về giữa bà con thân thích mình, lão phải có được quyền sống-thật-sự là mình chính mình vậy.


- Thôi nhé, lão đi đi, và sống cho ra người nhé.
Chiếc phi cơ rung chuyển sắp khởi hành. Bark nghiêng mình nhìn lần chót cảnh hoang liêu bát ngát Cap Juby. Quanh phi cơ, hai trăm người Maure tụ họp để xem cho rõ gương mặt một người nô lệ nó ra như thế nào trước ngưỡng cửa tự do. Và họ sẽ tóm lão trở lại nếu phi cơ có hỏng máy một nơi nào đó quanh quất bao xa.
Chúng tôi vẫy tay từ biệt, vĩnh biệt đứa con sơ sinh năm mươi tuổi đầu, lòng hơi hoang mang giao nó lưu ly vào cuộc thế.
- Vĩnh biệt Bark nhé!
- Không.
- Sao, không?
- Không. Tôi là Mohammed ben Lhaoussin.
Lần cuối cùng chúng tôi được tin tức Bark là nhờ Abdallah, người Ẳ Rập chúng tôi đã cậy trông chừng Bark tại Agadir.
Chuyến ô-tô-ca chỉ khởi hành vào chiều tối, nên Bark ở đấy cả ngày. Ban đầu, lão lang thang thật lâu trong thành phố nhỏ ấy, không nói một lời nào, Abdallah đoán là lão đương e ngại sự gì. Động lòng mới hỏi:
- Gì thế?
- Không…
Bark choáng váng trong cơn sổ lồng đột ngột, chưa kịp nhận thấy rõ cuộc hồi sinh. Lão có cảm thấy một thứ hạnh phúc hoang mang, nhưng ngoài niềm vui đó ra, lão chưa thấy có gì khác biệt giữa Bark hôm qua và gã Bark hôm nay. Tuy nhiên, từ nay lão bình đẳng chia sẻ với kẻ khác ánh nắng mặt trời này, và có quyền ngồi đây, tại quán cà phê Ẳ Rập. Lão ngồi vào. Lão gọi trà cho lão và cho Abdallah. Đây là cử chỉ vương giả đầu tiên của lão; oai quyền kia đáng lẽ phải biến dạng con người lão. Nhưng tên bồi bàn lại chẳng nhìn ra gì ráo, cứ thản nhiên rót trà cho lão, không biết gì về cái cử chỉ vương chúa kia. Lúc rót trà nọ, hắn không ngờ, hắn chẳng biết rằng mình đương chúc tụng cái hiển hách của một con người tự do.
- Ta đi nơi khác. Bark nói.
Họ kéo nhau về phía chợ, nơi đó bao quát được phong cảnh khắp vùng Agadir.
Những nàng thi ca nhi vũ người Berbère xinh xắn lân la tìm tới bên hai người. Các cô có dáng điệu nhu thuận dịu dàng thật là êm ái dễ thương. Bark lúc bấy giờ mới chợt cảm thấy rằng mình sắp được sống lại: chính các cô em này là những kẻ sắp đón mừng lão đương trở lại với đời, dẫu rằng các cô em vô tình nào có biết có hay. Họ cầm tay lão, nâng trà mời lão, rất ân cần ngoan ngoãn, nhưng cũng một cách như vậy với bất cứ kẻ nào. Bark muốn kể chuyện mình hồi sinh. Họ dịu dàng cười. Như hồn nhiên đôi hàng thùy liễu. Họ rất hài lòng cho lão, như tơ liễu hài lòng vì thấy suối hân hoan. Bởi chưng lão hài lòng thì chị em chúng cháu cũng xin hả dạ vậy. Lão nói thêm vài lời cho các cháu tưng bừng thỏa thích nghen? – “Ta tên là Mohammed ben Lhaoussin”. Nhưng họ hài lòng mà chẳng lấy làm ngạc nhiên chi cả. Tất cả mọi người cũng mang mỗi kẻ một cái tên, và biết bao người cũng đã đến đây từ xa xôi lắm lắm…
Lão lôi Abdallah vào thành phố. Lão lang thang trước những cửa hàng người Do Thái, ngó nhìn ra biển, nghĩ rằng mình muốn bước đi đâu mặc ý, bước theo hướng nào mặc lòng, vì mình tự do. Nhưng cái tự do kia dường như chua chát: nhất là nó cho lão thấy, giữa lão với đời, còn thiếu rất nhiều liên lạc.
Một đứa bé đi qua, Bark vuốt nhẹ vào má nó. Đứa bé mỉm cười. Đó không phải một đứa con của chủ giàu mà ta tới nịnh. Đó là một đứa bé nghèo yếu, được Bark ban cho chút yêu mến. Và nó mỉm cười. Và đứa bé thức tỉnh Bark, Bark cảm thấy mình có quan hệ nhiều hơn một chút trên mặt đất, nhờ một đứa bé yếu đuối đã vì lão mà mỉm cười. Lão bắt đầu nhận ra một cái gì đó, và bây giờ lão bước mạnh và mau hơn.
Abdallah hỏi:
- Lão tìm chi thế?
- Có chi đâu, Bark đáp.
Nhưng lúc lão vướng phải một đám trẻ con đang nô rỡn ở một đoạn đường quanh, lão dừng lại. Chính là đây. Lão lặng lẽ nhìn chúng. Rồi quay lại những cửa hàng Do Thái, lân la một lúc trở về với những món quà mang đầy nặng hai tay, Abdallah tức bực:
- Ngốc quá ta, giữ tiền mà tiêu chớ.
Nhưng Bark chẳng nghe gì nữa hết. Trịnh trọng một cách, lão ra dấu cho từng đứa một lại gần. Và những bàn tay tí hon chìa ra đón lấy những đồ chơi, những vòng xuyến, những chiếc hài thêu kim tuyến long lanh. Và bọn trẻ con từng đứa nắm chặt phần mình rồi, liền chạy mất, thật man di.


Trẻ con khác trong thành hay tin, xô nhau ù chạy tới tìm. Bark đem hài thêu kim tuyến ra xỏ vào bàn chân chúng. Rồi trẻ con ở các vùng quanh quất Agadir tới lượt bén tin nao nức cũng reo hò đổ tới, không ngớt kêu la tới bên đấng Chí Tôn Thần Linh da đen mà bám, bu vào nát cả y phục nô lệ xác xơ, mà đòi phần sẻ chia thích đáng. Bark tan tành sự nghiệp. Hỡi ôi!
Abdallah cho là lão ta “điên vì vui quá”. Nhưng tôi nghĩ rằng sự vụ không phải thế, không phải rằng Bark vì ngập tràn vui sướng mà san sẻ chia ra.
Nhân vì được tự do, lão nắm đủ trong tay những của cải cốt thiết: cái quyền được kêu gọi yêu mến về, cái quyền được bước đi tùy hứng, ngoảnh về Bắc hoặc ngó về Nam, cái quyền kiếm cơm ăn bằng mồ hôi hay nước mắt. Thì cần chi nữa cái số bạc lửng lơ này… Trong khi tâm thần thể phách cùng hoài cảm thiết tha (như thiết tha thèm ăn lúc đói) cái nhu cầu được làm một con người giữa hàng vạn con người, được cùng mọi con người kết liền một khối. Những vũ nữ tại Agadir đã tỏ ra dịu dàng với lão, nhưng lão giã từ họ mà chẳng bận bịu lòng, lờ lững lúc đi như lờ lững lúc đến; họ có cần gì tình quyến luyến của lão đâu. Chú bồi bàn trong quán Ẳ Rập nọ, kẻ qua lại bên đường kia, thảy thảy cùng tôn trọng con người tự do ở nơi lão, cùng lão bình đẳng chia sẻ ánh mặt trời, nhưng không một kẻ nào đã tỏ ra cần lão. Lão tự do, nhưng tự do vô biên vô hạn, tự do tới cùng cực thì cũng thấy không còn chút ràng buộc nào giúp hình hài đè nặng trên đất yêu. Lão thiếu mất cái khối nặng của tương thân giao thiệp, cái khối ân tình cản lối chân đi, những giọt lệ vàng, những lời vĩnh biệt, những hờn dỗi trách nhau, những niềm vui kia, những nỗi sầu nọ, tất cả những gì con người mơn trớn, hoặc xé rách ra đôi, mỗi lần chớm đưa tay làm một cử chỉ nhỏ, những ngàn ngàn tơ nhựa gắn bó keo sơn, làm cho con người nó nặng cân trong cuộc. Tuy nhiên, ngàn hy vọng cũng đã bắt đầu trĩu xuống cõi lòng kia.
Và thịnh triều của lão Bark đã khởi đầu trong lộng lẫy bóng tà dương, đã mở màn lúc ráng chiều nhuộm màu vàng trên Agadir cựu phố, trong bầu không khí mát mẻ hoàng hôn, bao phen đối với lão ta đã từng là niềm dịu dàng để chờ mong duy nhất, chỗ nương náu duy nhất tháng ngày. Và lúc giờ lên đường sắp tới gần, gần thêm mãi, Bark đã tiến bước lên, tắm thân mình trong ngọn triều trẻ nhỏ, như xuân kia từng đã ngập linh hồn trong đàn cừu non dại, Bark bắt đầu vạch cái đường cày đầu tiên trong cõi đời, theo mộng xuân đầu gieo hột hàng hàng trong tình yêu thứ nhất. Chàng sẽ bước trở vào trong vòng cùng khốn của thân thích bốn bề, mai đây chàng sẽ… đảm nhận những đời sống muôn vàn, nhiều, nhiều hơn hai cánh tay già đủ sức chở, đủ sức nuôi, nhưng dù sao, tại nơi đây, chàng đã dè thân trên phù du trong cõi, với đủ đầy sức nặng thật của thân. Sao ôi, sao mà thanh thản thế, như thiên thần thượng đẳng quá thanh thoát giữa thương khung, không thể nào dấn thân sống ngửa ngang đống gò cõi tục, nên đã đành lếu láo một cơn gian, là len lén lận hột chì trong đai nịt, để sè sè đi tới giữa trần gian đúng theo phong độ người trần gian sành điệu bước gập ghềnh cho hì hục hợp nhau, lão Bark của chúng ta cũng bước đi như khó khăn chập chững, bị lôi kéo khòm lưng về mặt đất bởi ngàn ngàn trẻ nhỏ bám quanh thân, trẻ nhỏ ôi, các em sao mà yêu những đôi hài vàng thêu đến thế.
7
Sa mạc là thế đó. Một kinh Coran của Hồi Giáo, đáo cùng cũng chẳng khác mấy một luật tắc của cuộc chơi, biến cát sa mạc thành một phiêu bồng Đế Quốc. Sâu hút trong một Sahara đứng lỳ ra rỗng không là thế đó, lại có diễn một tấn tuồng bí mật, làm náo động những nhiệt tình say đắm của nhân gian. Cuộc sống thật sự của sa mạc, không chỉ được dựng nên bởi những cuộc thiên di tẩy chuyển của những bộ lạc đi tìm một tấc cỏ để mục súc gặm nhai, nhưng thật quả được làm nên là bằng cái cuộc chơi đang còn diễn ra tại đó. Ôi, khác biệt một vực một trời, là thể chất giữa cát bãi đã chịu tòng phục và cái thứ cát kia chưa. Và đối với mọi con người thế gian, sự vụ há chẳng hệt là y như rứa? Đối diện cái sa mạc đã biến dạng dị thường kia, tôi bỗng nhớ lại những trò chơi tuổi nhỏ, tôi nhớ lại cái khu vườn âm u mà vàng gieo lộng lẫy, mà thủa nhỏ chúng tôi từng đã mang về đầy đủ những chư thần, chư thánh, ôi chư tiên kiều diễm dắt tay nhau vào lá xanh dìu dặt. Tôi nhớ lại cái vương quốc bao la của chúng tôi lôi ra từ một cây số vuông vườn đất, chẳng bao giờ hiểu trọn được, chẳng bao giờ lục soát xong, chẳng bao giờ mò mẫm đủ, chẳng bao giờ giao phó hết ẩn ngữ mình cho tâm thức đọc ra. Chúng tôi cấu tạo nên một nền văn minh kín bưng biệt lập, trong đó từng bước chân có riêng một hương vị, từng gót ngọc có riêng một âm vang, từng mỗi một vật thể nhỏ hay to, tròn xinh hay méo xẹp, thảy thảy đều mang một nghĩa riêng tây, ngoài cõi đó ra, không bao giờ một miền khác có. Không có quyền, và không được phép. Nhưng còn chi nữa của vũ trụ kia, một phen chúng tôi trở nên người lớn, sống theo những luật tắc phong tư khác, còn gì đâu nữa của khu vườn liễu in dòng rụng, thu đầy tuổi thơ, hào hoa huyễn ảo bao giờ, vừa băng giá lại vừa sờ sợ thiêu – cái khu vườn mà ngày nay, lúc ta về viếng lại, ta ngậm ngùi như tuyệt vọng bước vòng theo ở bên ngoài, men bờ tường lè tè đá xám, xót xa kinh ngạc nhận thấy mọi hương màu sao khép ngột trong cái vòng em eo hẹp làm sao, mọi hương màu của một quận châu đã từng là vô hạn của bao la, và biên bờ cõi, và sực hiểu rằng không bao giờ ta sẽ còn có thể bước trở vào trong cõi rộng xưa kia, bởi vì chưng nếu phải vào trong, ấy không phải trong khu vườn, mà vào trong là ấy trong trò chơi giữa cuộc…
Nhưng phong cảnh phiến loạn không còn, thì cuộc chơi chấm dứt. Cap Juby, Cisneros, Puerto-Cansado, la Saguet-El-Hamra, Dora, Smarra, chẳng nơi nào còn chút chi bí mật. Những chân trời rộng mở ta đã từng đăm đắm đuổi theo, đã lần lượt chìm tan đâu mất cả, như những côn trùng sặc sỡ chợt sa vào bàn tay tóm bắt, chợt tan tành những lộng lẫy sắc hương. Nhưng cái kẻ đăm đăm đuổi theo, dẫu có xiêu hồn lạc phách, cũng không hẳn là ngốc nghếch chịu làm thứ đồ chơi cho ảo tưởng dồi tung. Chúng tôi không u mê nhầm lẫn, lúc lao đầu vào khai phá cỏ chân mây. Vị Hoàng Đế kia trong truyện Nghìn Lẻ Một Đêm cũng vậy, ông theo đuổi một thể chất quá khinh khiêu phiêu bồng phong nhị, cho đến nỗi những kiều diễm thiên hương bốc hơi là thế, mà vẫn phải cứ lần lượt từng cánh sa rụng giữa bình minh, trong vòng tay ông còn ngẩn ngơ ghì siết, ấy cũng vì chớm chạm vào thì cánh vàng băng tuyết bỗng đứt mạch nguyên truyền mà ngất lịm trôi xa. Chúng tôi từng nuôi dưỡng mình bằng ảo mộng hoàng sa, những kẻ khác mai sau sẽ về đây có lẽ, sẽ đào sâu những con giếng dầu hôi, sẽ làm giàu với những hàng hóa nọ. Nhưng họ sẽ về, là về quá muộn mà thôi. Bởi chưng những bãi kè, cụm dứa, những vùng xanh là cấm địa ban sơ, và những hột bụi trinh nguyên của những vỏ nghêu, vỏ hến, vỏ hào ba góc hẹp, đã muôn vàn ẩn bí riêng trao – cho chúng tôi cái phần riêng mật ngọt, riêng một giờ phụng dâng ngây ngất, chúng tôi lao đầu vào là chúng tôi riêng sống đó chứ sao.
°
Sa mạc ư? Một lần tôi có dịp ghé vào, cập bờ sa mạc theo con đường: từ giữa trung tâm. Trong một chuyến bay sang Đông Dương năm 1935, tôi lại băng mình vào Du Dương Ai Cập, nhớ nhung người đổ quán phố Alexandrie, sát biên thùy Libye ngõ hạnh, đắm đuối chìm trong hoàng sa lộ đoản cho trầm luân thân phận giữa lưới nhựa keo sơn, tưởng chết ra ma, mà rồi ra chưa chết. Đây là câu chuyện.