Thứ Tư, 26 tháng 8, 2009

Hang SƠN ĐOÒNG, Quảng Bình

Mới đây, Hội Hang Động Hoàng Gia Anh đã thám hiểm một hang được cho là dài nhất thế giới. Hang này được một thanh niên địa phương phát giác và đã hướng dẫn cho đoàn này hai lần. Tới lần thứ hai, cả đoàn mới tìm thấy.

Phát hiện hang động lớn nhất thế giới tại Quảng Bình

Đoàn thám hiểm Hoàng gia Anh vừa tìm thấy hang động thuộc di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng, có chiều rộng 200 mét, cao hơn 150 mét với vô số đại thạch nhũ.

Chiều 22/4, Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh công bố trước UBND tỉnh Quảng Bình phát hiện hang động lớn nhất thế giới.

Hang được đặt tên Sơn Đoòng, nằm cách đường Hồ Chí Minh tuyến phía Tây 9,5km, thuộc di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng. Đoàn thám hiểm mới khám phá được 6,5km do chưa có điều kiện kỹ thuật tốt nên chưa kết luận khoa học về độ dài của hang động mới này.

Howard Limbirt, trưởng đoàn thám hiểm xác nhận Sơn Đoòng là hang động lớn nhất thế giới với chiều rộng hơn 200m, chiều cao hơn 150m. Trước đây, hang động lớn nhất thế giới từng được xác nhận là hang Deer ở Malaysia với chiều cao 100m, rộng 90m, dài 2km.

Hang động được Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh xác định là lớn nhất thế giới. Ảnh: Đoàn thám hiểm cung cấp.

Sơn Đoòng tráng lệ với vô số đại thạch nhũ mọc lên từ lòng hang và trần hang. Các nhà khoa học tiết lộ, nguồn nước ở đây chảy rất mạnh. Muốn vào Sơn Đoòng phải đi bộ giữa rừng già nguyên sinh, vượt nhiều mỏm núi đá lởm chởm. 18 năm trước đây, người thợ sơn tràng đi rừng phát hiện hang động này.

Đoàn thám hiểm cho biết, trong quá trình khám phá họ gặp không ít những khó khăn bởi núi đá tai mèo, những cơn mưa rừng và một số loài côn trùng. Mưa rừng nơi đây đã cô lập đoàn thám hiểm 38 giờ giữa đại ngàn.

Ngoài ra đoàn cũng phát hiện một hố sụt catxtơ sâu nhất Việt Nam với độ sâu hơn 255m, tại km18 đường 20. Hố sụt này được đánh giá độ tuổi hơn 400 triệu năm. Gần 20 hang động khác ở khu vực Cha Lo (Minh Hoá), và Bố Trạch cũng được họ tìm thấy. Tổng chiều dài các hang động mới phát hiện hơn 34km.

Tại Minh Hóa, nơi phát hiện hang Cà Xen, đoàn đi bộ từ đầu cửa hang đến cuối hang mất 6 giờ. Phía cuối có một hồ nước rộng 20m. Tuy nhiên, đoàn thám hiểm không biết được độ sâu do không có thiết bị lặn chuyên dụng. Các thành viên trong đoàn nhận định, khả năng đây là hồ nước rất sâu có nguồn gốc từ Lào.

Trước những phát hiện này, ông Trần Công Thuật - Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình cho biết, tỉnh sẽ bảo tồn quảng bá những vẻ đẹp hiếm có này nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Ông Howard Limbirt cho biết, đoàn sẽ trở lại vào năm 2011 với những phương tiện hỗ trợ cần thiết nhằm khám phá hết hang Sơn Đoòng.

Ảnh khám phá hang động lớn nhất thế giới tại Việt Nam

Đoàn thám hiểm trong rừng nguyên sinh.
Hang động và hồ hụt sâu được đoàn thám hiểm khám phá tại Việt Nam.
Đoàn thám hiểm chụp trước UBND tỉnh Quảng Bình.

(Ảnh: Đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh cung cấp )

http://www.mila.vn/vn_dulich_vietnam.php?nt=4&nt_id=980&td=Ph%C3%A1t-hi%E1%BB%87n-hang-%C4%91%E1%BB%99ng-l%

Anh phụ hồ và niềm vui “săn” hang động

Anh chàng phụ hồ tên Hồ Khanh ở xóm 1, thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) bỗng dưng trở thành người nổi tiếng, sau khi Hội Hang động hoàng gia Anh họp báo giới thiệu hang Sơn Đoòng lớn nhất thế giới mới được tìm thấy. Anh nổi tiếng bởi chính là người được hân hạnh đặt tên hang và cũng là người giúp Hội Hang động hoàng gia Anh trong các cuộc tìm kiếm khác ở Phong Nha...

Cảnh trong hang Sơn Đoòng - Ảnh: Hội Hang động hoàng gia Anh

Một mắt tìm trầm, một mắt tìm hang!

Anh Khanh năm nay tròn 40 tuổi. Cha mất sớm nên mới xong lớp 7 (hệ 10 năm) anh phải nghỉ học để ở nhà chăn trâu bò giúp mẹ. Năm 1987 anh theo bạn bè trong xã vào rừng tìm trầm ở xứ Đoòng thuộc rừng Phong Nha - Kẻ Bàng với hi vọng đổi đời. Thế nhưng cứ mười chuyến đi thì chỉ có 1-2 chuyến anh tìm thấy trầm, mà cũng chỉ là loại trầm giác không mấy giá trị, khiến tiền bán trầm không đủ mua gạo, mắm.

Năm 1989, trong một lần đi tìm trầm, anh gặp một cái hang. Lần đầu tiên thấy hang, dù chỉ có một mình giữa rừng sâu nhưng anh vẫn cố vượt qua nỗi sợ hãi và tò mò đi vào một đoạn để xem. Trong hang đầy nhũ đá rất đẹp, lại tràn ngập không khí mát lạnh làm anh thấy thích thú. Cái hang anh thấy này được đặt tên là Vực Cá Thau, nghĩa là cá nhiều như ở trong thau. Bởi vì hang này nằm gần một cái hồ có rất nhiều cá, người dân trong vùng vẫn thường tìm đến để đánh bắt. Đó là cái hang đầu tiên anh tìm thấy trong “sự nghiệp” tìm hang động của mình sau này.

Vùng Đoòng có hai xứ là Thượng Đoòng và Hạ Đoòng. “Thượng Đoòng là vùng toàn rừng núi đất, còn Hạ Đoòng là vùng toàn núi đá vôi - anh Khanh giải thích - Các hang động chủ yếu nằm ở vùng Hạ Đoòng. Vì thế những chuyến đi tìm trầm sau này tui thường đi ở vùng núi đá vôi”. Bắt đầu “bị” hang động thu hút nên mỗi chuyến đi tìm trầm, anh chỉ dành một mắt cho việc tìm trầm, còn một mắt để ý đến các vách núi, các khe hẻm để tìm hang động. Chính cách tìm trầm kiểu nước đôi như vậy mà anh thường phải về tay trắng. Chị Lê Thị Nghĩa, vợ anh, than: “Người ta đi trầm về không có ít cũng có nhiều, anh Khanh nhà em họa hoằn lắm mới có được chút ít mang về, không bù được tiền vốn em bỏ ra mua gạo, mắm, thuốc lá. Đã rứa chuyến mô đi về cũng chỉ nhăm nhăm kể chuyện tìm ra hang ni hốc khác...”.

Cứ vậy, anh đã tìm ra 17 hang trong vùng núi Đoòng.

Anh Hồ Khanh (thứ hai từ trái qua) và đoàn khảo sát hang Sơn Đoòng  - Ảnh: Hội Hang động hoàng gia Anh

Chuyện về cái hang lớn nhất thế giới

Hang Sơn Đoòng được anh Khanh phát hiện từ năm 1991 ở vùng núi xứ Hạ Đoòng trong rừng Phong Nha - Kẻ Bàng, cũng trong một lần anh đi tìm trầm. Một mình cắt rừng lầm lũi, bất ngờ một cơn mưa đổ xuống buộc anh phải tìm chỗ trú chân. Lao vào một hốc đá sâu, tình cờ anh thấy hiện lên trong đám lá cây một cửa hang đen thui. Anh ngồi trước cửa hang khoảng gần một giờ, không khỏi ớn lạnh khi nghe tiếng gió thổi rít từng cơn không dứt từ phía trong cửa hang ra.

Hồ Khanh kể: “Ban đầu tui sợ lắm. Trước ở làng thường nghe bà con kể chuyện trong hang hốc rất hay có thuồng luồng hoặc thú dữ ẩn nấp nên không dám hó hé gì, dù tính tò mò luôn nổi dậy trong người tui. Sau tui cố gắng vượt qua sợ hãi và đi vô trong hang một đoạn năm bảy mét chi đó, nhưng vì sợ nên đành quay lui. Hết mưa, tui về. Nhưng trước khi về máu tò mò lại nổi lên nên tui cố ghi nhớ cửa hang, đường vô để sau ni nếu có dịp thì vô nữa...”.

Năm 2006, qua manh mối nào anh không rõ, người của Hội Hang động hoàng gia Anh tìm đến nhà và ngỏ ý nhờ anh dẫn đi tìm lại những hang động mà anh đã thấy. Thế là anh thành người dẫn đường. Từ đó đến nay anh đã đưa họ đến khảo sát ở 12 hang động lớn nhỏ. Trong đó hang Động Long là hang đầu tiên anh tìm lại được khá dễ dàng. Khi tìm lại được hang, ông Howard Limbert, trưởng đoàn khảo sát, cho anh được đặt tên hang. Hang mà bên trong có hồ nước anh đặt là Hồ Trên Núi, hang có gió thổi nhiều thì tên Phong, hang Thanh Nghĩa mang tên vợ anh, hang Thái Hòa mang tên con anh, một hang tên Khanh - tên của anh, hang Hùng là tên của một người bạn chơi thân với anh trong xã từng đi rừng với anh vài lần... Hang Thái Hòa anh tình cờ phát hiện trong một lần lạc lối phải đi loanh quanh trong rừng. Anh đã lấy tên con để đặt tên cho hang làm kỷ niệm để nhớ mãi lần lạc rừng đó. Còn với cái hang lớn nhất thế giới vừa tìm thấy, anh quyết định lấy địa danh ở đây để đặt tên cho nó.

Cuộc sống của Hồ Khanh hết sức vất vả với nghề phụ hồ, những lúc không có việc lại cơm đùm gạo bới vào rừng hi vọng kiếm chút trầm đắp đổi qua ngày. Nhưng cái hang sâu hun hút vẫn cứ ám ảnh anh mãi. Năm 2006, khi người của đoàn khảo sát hang động đến nhờ dẫn đường đi tìm các hang, anh bèn kể lại cái hang ám ảnh đầu óc mình. Đem chuyện kể với những người trong đoàn, anh được họ khuyến khích nhớ lại. Tuy nhiên, chuyến đi tìm năm 2007 đã thất bại vì tìm mà không thấy.

Tháng 1-2008, anh Khanh quyết định một mình vào vùng Hạ Đoòng để tìm lại hang lớn này. Anh cho biết: “Mình đã nói với họ như rứa rồi mà tìm không thấy thì mất lòng tin với người ta quá nên phải quyết tìm cho ra”. Hết ngày đầu tìm không ra vị trí hang nằm ở đâu. Ngày thứ hai anh tìm được hang. “Mừng quá là mừng, mình quên hết cả nỗi sợ hãi thuồng luồng, thú dữ trong hang và đi sâu vô hang được khoảng 100m. Nghe tiếng nước chảy rất lớn trong đó, và càng đi sâu vô thấy hang càng lớn hơn”.

Với kinh nghiệm mà ông Howard Limbert - trưởng đoàn khảo sát hang động của Hội Hang động hoàng gia Anh - đã truyền cho từ những lần đi hang trước đó, anh hú lên mấy tiếng thật to để nghe tiếng vọng trở lại dài hay ngắn nhằm biết được độ sâu, rộng của hang. Tiếng hú vang rất xa nhưng không hề quay trở lại nên anh biết hang này rất lớn và dài. In vào đầu vị trí, đường đi vào hang chắc chắn rồi, anh quay về.

Ngày 5-4-2009, đoàn khảo sát của ông Howard Limbert trở lại và cùng anh lên đường khảo sát hang lớn này. Ngày 6-4 đoàn lên đến cửa hang sau khi nghỉ lại một đêm giữa rừng tại khu vực hang Én. Đoàn vừa tới cửa hang đã nghe tiếng gió thổi ào ào. Biết là có hang thật như anh đã nói, cả đoàn ai cũng vui, bắt tay chúc mừng anh và mừng cho cả việc tìm ra hang mới.

Trong hang có nhiều thạch nhũ, nhưng do quá tối nên không thể thấy hết được vẻ đẹp của nó. Hồ Khanh chỉ biết là hang lớn hơn nhiều so với Phong Nha, Tiên Sơn mà anh thường theo bạn bè lên chơi. “Đường đi rất khó khăn trong ánh sáng chập chờn của đèn. Nhiều đoạn đoàn phải dùng dây thừng lần theo để vào sâu hơn. Trong hang này có nhiều nước nên rất mát, lại có cả suối chảy xiết”.

Thành viên của đoàn cho anh biết thạch nhũ trong hang này là loại nhũ già. Và anh chỉ biết nhũ già là loại nhũ mọc từ nền hang lên tới trần, còn nhũ non là nhũ mọc từ trần hang xuống, ở những chỗ đang có nước nhỏ tí tách. Vào gần 3km thì hang phát lộ một vòm cao hun hút. Ánh sáng nơi đây vỡ òa vì nhìn thấy được Mặt trời. Sau 6,5km chiều dài trong hang, đoàn phải trở lại vì sợ không kịp thời gian để quay ra. Vị trí hang được đoàn định vị trong hệ GPS toàn cầu. Sơn Đoòng có vị trí trên bản đồ hang động thế giới, với một vị thế là hang lớn nhất thế giới đến thời điểm này.

Như vậy là còn năm trong số 17 hang mà anh Khanh đã tìm ra đang chờ các chuyến khảo sát tiếp theo của Hội Hang động hoàng gia Anh, dự kiến họ sẽ trở lại VN vào năm 2011 để tiếp tục nhờ anh Hồ Khanh dẫn đường...

http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=117250

Read more: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=117250#ixzz0PHtdldMn

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009

Tên làng Việt Nam

Trong chuyến đi Bắc vừa rồi, mình biết được một điều rất thú vị. Tên làng ngoài Bắc, ngoài một tên bằng chữ Hán, luôn luôn kèm theo một tên bằng chữ Nôm mà tên này không thể lẫn vào đâu được. Thí dụ thôn Trinh Tiết, Mỹ Đức , Hà Tây (tức "HÀ ĐÔNG" đấy) thì có tên là làng SÊU. Ở Quảng Bình thì mình thấy làng CỘN, làng TROÓC (hai chữ O).

Tình cờ tôi đã tìm được một bài về tên làng ngoài Bắc. Nguyên văn như sau:

Những làng cổ có tên là "Kẻ"

Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ "kẻ". Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo...

Kẻ là người, kẻ cũng là làng

Ngôn ngữ Việt cổ có từ kẻ mà ngày nay vẫn còn gây tranh cãi trong những người cầm bút. Thậm chí, có người từng lên án gay gắt việc dùng câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Theo quan điểm của những người này thì kẻ là một từ chỉ người với nội dung xấu, như kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ gian, kẻ thù... Vậy thì không thể dùng cụm từ "kẻ trồng cây" mà phải dùng cụm từ "người trồng cây" mới đúng chăng!

Thực ra, trong kho tàng ngôn ngữ Việt cổ, ông cha ta dùng hai từ kẻ và người không hề phân biệt. Có thể dẫn chứng hàng loạt thành ngữ, tục ngữ để minh chứng cho điều này. Thí dụ: kẻ trên người dưới; kẻ trước người sau; kẻ cười người khóc; kẻ tám lạng người nửa cân; kẻ vào người ra; kẻ ở người đi; kẻ giàu người nghèo... Trong tất cả những thành ngữ, tục ngữ đó, kẻ và người được đặt ngang nhau và nếu ta đem hoán vị giữa hai từ kẻ và người, ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ đó cũng không thay đổi. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm đặt một dấu "bằng" giữa kẻ và người (kẻ=người) mà không hề phải phân vân gì.

Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ "kẻ". Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo... Có một điều chung nhất trong tất cả các làng mang tên kẻ này, đó đều là những làng cổ. Theo ý nghĩa của ngôn từ Việt cổ, có thể hiểu từ kẻ ở đây chỉ một cụm dân cư sống trên một địa bàn cụ thể. Thí dụ, Kẻ Noi = Người (ở làng) Noi; Kẻ Mọc = Người (ở làng) Mọc; Kẻ Bưởi = Người (ở làng) Bưởi... Để đơn giản, người ta hiểu: Kẻ Noi = làng Noi; Kẻ Mọc = làng Mọc; Kẻ Bưởi = làng Bưởi... Như vậy, ở đây kẻ được đồng nhất với làng.

Khi các triều đình phong kiến Trung Hoa sang xâm lược nước ta, để tiện lợi cho việc ghi chép vào giấy tờ, sách vở (theo chữ Hán), mỗi làng lại phải đặt một tên chữ (âm Hán - Việt). Khác với tên Nôm chỉ có một từ (không kể từ Kẻ đứng trước), tên chữ thường có ít nhất là hai từ. Như vậy, những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc, nhất thiết phải có hai tên, một tên Nôm (kèm Kẻ) và một tên chữ. Những làng ra đời trong thời kỳ phong kiến thường chỉ có tên chữ, không có tên nôm và không có Kẻ. Đó là tiêu chí để ta phân biệt những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc và những làng mới được thành lập sau này.

Trong việc đặt tên làng xã của Việt Nam, ta lại thấy có hiện tượng đặt tên làng theo tên dòng họ, như Nguyễn Xá, Hoàng Xá, Phan Xá, Bùi Xá... Xá là một từ Hán - Việt chỉ nơi cư trú: Nguyễn Xá là nơi cư trú của những người họ Nguyễn, Hoàng Xá là nơi cư trú của những người họ Hoàng... Trong những làng mang tên Xá như vậy cũng có những dòng họ khác sinh sống. Tuy nhiên, dòng họ mà làng mang tên dòng họ lớn nhất, có vị thế chủ đạo, có ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần của cả làng. Từ nguồn gốc hình thành và tên gọi của nó, các làng mang tên Xá không thể ra đời trước thời điểm các triều đình phong kiến Trung Hoa sang đô hộ nước ta. Như vậy, trong hệ thống địa danh các làng cổ Việt Nam, những làng có Kẻ là những làng xuất hiện sớm nhất. Có thể coi đó là những địa bàn định cư, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời Hùng Vương dựng nước. Trong một cuốn địa chí văn hóa của xứ Thanh, làng có Kẻ chiếm 24%; làng không Kẻ chiếm 76% (trong đó bao gồm làng có Xá, làng do di dân lập ấp trong thời phong kiến, làng do đất phong và các trại khai hoang xưa, nay đã thành làng). Như vậy, với một vùng đất cổ như Thanh Hóa, có đến 24% số làng xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước.

Sự phân bố các làng Kẻ trên bản đồ Việt Nam

Những vùng làng có tên Kẻ được tập trung vào ba trung tâm chính:

1. Trung tâm núi Hồng - sông Lam: Đây là một vùng có nhiều làng cổ có tên là Kẻ. Phạm vi những làng này nằm trong vùng đồng bằng và vùng ven chân núi phía nam Nghệ An, phía bắc Hà Tĩnh mà dày đặc nhất là vùng ven núi Hồng - sông Lam. ở đây có những huyện mà số làng tên Kẻ chiếm đến 2/3 (tức hơn 60%) tổng số các làng, như huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu (Nghệ An) có nhiều làng Kẻ. Các di tích khảo cổ chủ yếu như Thạch Lạc, Làng Vạc, Quỳnh Văn nằm trong phạm vi vùng Kẻ này. Đi về phía nam, các làng Kẻ ít dần. Vùng Bình - Trị - Thiên cũng có Kẻ nhưng thưa thớt hơn. Phía nam đèo Hải Vân, các Kẻ còn thấy xuất hiện đến tận Quảng Nam, Quảng Ngãi

2. Trung tâm Đông Sơn (Thanh Hóa): Đây cũng là một vùng dày đặc các làng tên Kẻ. Phạm vi bao gồm các huyện nằm ven chân núi và vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu như: Đông Sơn, Thiệu Yên, Triệu Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nông Cống. Các làng Kẻ làm thành một vệt liên tục từ Kẻ Don (Vĩnh Lộc) xuống Kẻ Đàng (Thiệu Yên). Các di tích khảo cổ chủ yếu của thời đại đồng thau như Đông Sơn, Thiệu Dương, Hoằng Hóa... nằm trong phạm vi khu vực này. Có một điều đặc biệt lý thú là toàn bộ huyện Nga Sơn không hề có một làng tên Kẻ nào (trong lúc đó, các huyện bên cạnh đều có làng Kẻ!). Điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết Mai An Tiêm: vào thời vua Hùng, toàn bộ vùng này đang nằm sâu dưới biển, chỉ nhô lên một vài hòn đảo (Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang ở Nga Sơn theo truyền thuyết).

3. Trung tâm Việt Trì - Phong Châu: Đây là trung tâm của thời kỳ các vua Hùng. Những làng mang tên Kẻ ở đây phân bố ven theo chân núi Ba Vì, Tam Đảo và dọc theo châu thổ sông Hồng từ Phong Châu, Việt Trì xuống đến phạm vi thủ đô Hà Nội. Các huyện Phong Châu, Thanh Sơn, Sông Thao, thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Lập Thạch, Tam Đảo, Vĩnh Lạc, Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội) đều có nhiều làng Kẻ. Những làng có đền thờ các nhân vật thời Hùng Vương, những làng lưu truyền các truyền thuyết về các tướng tá thời Hùng, thường là những làng mang tên Kẻ. Những di chỉ khảo cổ chủ yếu như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun... nằm trong khu vực này. Đền Hùng ở cạnh một làng mang tên Kẻ: Kẻ Khống (Chu Hóa, Phong Châu); Cổ Loa là Kẻ Chủ; quê hương của người anh hùng Thánh Gióng là Kẻ Đổng (Phù Đổng, Gia Lâm). Toàn bộ vùng Kẻ ở khu vực này tạo thành một hình tam giác, lệch về góc đông nam. Ở rìa của góc đông nam đó là vùng Trâu Sơn - Phả Lại, là nơi kẻ thù thường xâm phạm. Đó chính là bối cảnh của chiến trường Thánh Gióng đánh giặc Ân trong truyền thuyết. Vùng đất thủ đô Hà Nội cũng là một vùng đất cổ, trên đó dày đặc các làng có tên Kẻ như chúng tôi đã trích dẫn ở phần đầu. Có nhiều Kẻ ở ngoại thành, có những Kẻ bây giờ thuộc nội thành như Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ...

Ở phía nam Hà Nội vắng hẳn các làng tên Kẻ. Theo một số tài liệu nghiên cứu thì cách đây 3.000 năm, đường bờ biển ở vào khoảng Chương Mỹ, Thường Tín, nối đến thành phố Hải Dương ngày nay (lúc ấy, vùng núi đá vôi Nho Quan - Ninh Bình có phong cảnh như vịnh Hạ Long bây giờ). Cách đây 2.000 năm, đường bờ biển lùi xuống Ninh Bình, Nam Định. Như vậy thì vào thời Hùng Vương, vùng đất phía nam Hà Nội đang là bãi cát bồi ven biển, chưa được khai phá. Điều đó cắt nghĩa vì sao ở đây không có các làng tên Kẻ. Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung: đây là lãnh thổ đang "tranh chấp" giữa con người và thiên nhiên, chưa có những khu vực dân cư ổn định (các tên Chử Xá, Dạ Trạch là các tên Hán - Việt do đời sau đặt).

Kinh đô Văn Lang

Trong thư Hoài Nam Vương gửi Hán Vũ Đế (thế kỷ 2 trước Công nguyên) có ghi: "Nam Việt không phải là nơi ấp lý có thành quách. Họ ở trong khoảng khe suối, ở giữa rừng tre" (Hoài Nam Tử). Có thể thấy: ngay từ xưa, người Việt đã ở trong các làng có lũy tre dày đặc bao bọc (người Trung Hoa nhìn từ ngoài vào, không hiểu, cho là rừng tre). Tre là lũy để bảo vệ an toàn cho các Kẻ, chứ không cần phải thành quách. Với trình độ kỹ thuật quân sự xưa, chỉ có tên tre và mũi lao, mũi giáo bằng đồng thì lũy tre dày đặc bao quanh các Kẻ thật là kiên cố. Bên trong các Kẻ đó lại có các lũy tre phân chia từng gia đình thành từng ô nhỏ. Vì vậy, nếu kẻ thù đột nhập vào đây sẽ như lọt vào trận đồ bát quái, khó có thể tìm được lối ra và sẽ bị tiêu diệt. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định: vào thời kỳ Hùng Vương, người Việt chưa có thành quách và cũng không có nhu cầu xây đắp thành. Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả - Kẻ Cả) mà thôi (các nhà khảo cổ cho rằng khu di tích Làng Cả - Việt Trì chính là kinh đô Văn Lang xưa).

Tất nhiên, vào thời vua Hùng không phải chỉ có Kẻ. Kẻ chỉ ở đồng bằng và vùng đồi núi thấp. Ở những vùng cao có các bản, mường. Ngay gần kinh đô Văn Lang cũng có rất nhiều bản, mường của người Mường, người Dao. Có thể nói: những kẻ, bản, mường đó là những tập hợp cư dân, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời kỳ Hùng Vương dựng nước.

(Phan Duy Kha tổng hợp)

http://www.hophamvietnam.org/1/index.php?mn=newsdetail&key=lich-su-tu-lieu&newsid=609

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2009

Những bài văn thơ, ca dao về Làng SÊU

Qua thơ văn trên mạng, Làng Sêu vốn nổi tiếng về nghề nuôi tằm.

Giống như bao làng khác ở miền Bắc, quanh các khu nhà cũng như quanh làng là hàng rào. Trước đây tôi thường nghe nói về lũy tre, nhưng nay có lẽ hàng rào bằng gạch là chính.

Dưới đây là một số ca dao, văn thơ về Làng SÊU

CA DAO
 
1. Muốn ăn cơm tám canh cần
Thì về Trinh Tiết chăn tằm với anh. (1)
 
1. Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Vạn Phúc với anh thì về (2)
2. Vạn Phúc có cội cây đề
Có sông uốn khúc, có nghề quay tơ
 
1. Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
2. Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây. (3)
 
(1). Trinh Tiết: thường gọi là làng Sêu, thuộc xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Tây.
(2). Vạn Phúc: nay thuộc thị xã Hà Đông. Xưa kia có nghề dệt lụa, dệt gấm vóc nổi tiếng.
(3). Di chỉ thành An Dương Vương ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội (trước thuộc tỉnh Phúc Yên)

Làng SÊU

LÀNG SÊU

Vừa qua tôi đã cùng gia đình về thăm làng SÊU. Hóa ra làng này khá nổi tiếng.

 

Từ cổng làng nhìn sang bên kia là núi non trùng điệp.

"Đình còn, nước ta còn" Không biết ai đã nói câu đó. Thành Hoàng của làng là Trần Quốc Bảo. Vì vậy, trong làng không ai đặt tên con là BẢO hết.

 

Dưới đây là một bài nói về làng SÊU (thôn Trinh Tiết, xã Đại Hưng, Hà Tây)

 

Thứ hai, 15 Tháng 12 2008 02:57

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ. Đời nói thế, những người làm văn học nghệ thuật cũng nói thế. Đời và những người làm văn học nghệ thuật nói về tằm ư? Không phải họ nói về tằm. Họ mượn tằm, và đời cũng mượn tằm để nói về họ. Nhưng có thực con tằm đến thác vẫn còn vương tơ không? Ủa, mà sao con tằm đến thác vẫn còn vương tơ?

Tôi đã mấy lần về Duy Xuyên, đến ven sông Thu Bồn trải dài những nương dâu. Tôi cũng có về làng Trinh Tiết, tên nôm của làng rất hóm, làng Sêu, một làng nghề chăn tằm đất Hà Tây. Làng Sêu có chợ Sêu ở giữa làng, mỗi tháng họp sáu phiên, mồng một, mồng sáu, mười một, mười sáu, hăm mốt, hăm sáu. Làng nằm trên dải bậc thềm phù sa cổ, nhiều truyền thuyết lắm. Tôi hỏi một cô gái chăn tằm làng Sêu:

- Có thật con tằm đến thác vẫn còn vương tơ không?

Cô cười. Cô dẫn tôi đi xem nương dâu. Dâu ưa nhất là đất pha cát, mỗi năm tám lứa, mỗi lứa 30 ngày, thông thường là vậy. Tám lứa dâu nuôi tám lứa tằm, mỗi lứa tằm là 22 ngày, cũng thông thường là vậy. Nhưng tám lứa dâu và tám lứa tằm có liên quan gì tới con tằm đến thác vẫn còn vương tơ? Cô gái làng Sêu lại cười. Cô dẫn tôi theo lối xóm, đường làng đã đổ bê tông, vào xem một buồng tằm. Buồng tằm thoáng và sạch. Trứng tằm đen nhỏ li ti, nở lũ tằm con cũng nhỏ li ti, như đầu que tăm. Người chăn tằm hái dâu về, lá dâu phải thật ngon, thật ráo, nghĩa là phải chọn toàn những lá xanh, rồi thái thật nhỏ, rải lên thân tằm. Tằm con cũng như trẻ nít, nó ngoan, yếu đuối lắm, nhưng ham ăn. Cứ ba giờ phải cho ăn một bữa. Tằm lớn dần, qua sáu ngày đầu thì lên một tuổi. Sau đó, cứ bốn ngày lại lên một tuổi nữa. Một đời tằm thọ nhất là bốn tuổi. – Cô gái làng Sêu tủm tỉm. - Buồn cười, tằm ăn thật no ba ngày rồi nghỉ ăn, nằm ngủ một ngày. Nó có bốn mắt nhỏ xíu, đó là bốn chấm đen trên trán và trên thân tằm. Chẳng biết lúc ngủ tằm có nhắm mắt hay không, chỉ thấy nó nằm yên, không cựa quậy, như một chú bé ngủ say. Sau một ngày ngủ đẫy, nó lột xác, xác mỏng, rời khỏi thân tằm rơi nhẹ trên lá dâu. Tằm lớn lên, thân tằm từ màu trắng xanh chuyển qua màu hồng rất nhạt. Đến ba tuổi, tằm ăn rất khỏe. Người ta thường bảo: tằm ăn rỗi. Tiếng tằm ăn nghe rào rào. Tiếng tằm ăn như tiếng mưa rơi (1), dù nhỏ hơn tiếng mưa rơi rất nhiều. Buồng tằm bỗng rộn ràng, líu lo, như nhà có tin sinh nở. Đến tuổi hết lớn, thân tằm như một cánh đào phai, cô gái làng Sêu bảo rằng: Tằm chín! Lúc đó, bao nhiêu dâu tằm đã ăn vào bụng chuyển thành tơ. Tơ đầy một bụng tằm.  Màu hồng nhạt ấy là màu tơ ẩn dưới làn da mỏng và mềm của tằm. Một nong tằm là năm nong kén. Cô gái làng Sêu bảo: một nong tằm không được năm nong kén đâu! Muốn có một nong kén thì phải chăm năm nong tằm í.

Cả nhà chăn tằm xúm quanh nong tằm chín đặt trên nền nhà tráng xi măng. Cô gái làng Sêu lại nói:

- Không phải một lứa tằm hoàn toàn chín hết một lượt. Nhãn, vải, hồng ta, mãng cầu xiêm, chôm chôm cũng vậy, mà con người cũng vậy.

Mấy người chăn tằm dùng các ngón tay mềm mại lặt nhẹ các chú tằm chín ra một nong khác. Các chú tằm chưa chín, nghĩa là còn thiếu bữa, thân vẫn xanh, được để riêng vào một nong khác rồi phủ lá dâu, chỉ một ngày, sau khi đã ăn dâu cho đủ bữa, tằm lại chín muồi.

Sân phía trước nhà đã chuẩn bị sẵn nơi để tằm làm ổ. Trước kia thì bằng những lọn rơm thật sóng, nghĩa là thật khô. Bây giờ thì bằng các cành dâu già đã chặt, đã phơi phóng cẩn thận đặt sít vào nhau trên một loạt giá gỗ dài, có tên là né. Người chăn tằm rải tằm chín lên trên những tấm né ấy. Tằm ngọ nguậy như trẻ nít mới biết nằm sấp huơ chân huơ tay trên chiếu. Tằm nhộn nhàng hẳn lên, cảm thấy sung sướng, đã tìm được nơi cao ráo. Chẳng có gì là cao sang, miễn là ở giữa những cọng rơm đồng nội hay giữa những cành dâu khô sinh ra từ quê dâu, đủ cho tằm một không gian bé tí để tằm có thể gác thân nhẹ vào đó mà nhả tơ. Ban đầu, tơ tằm nhả ra giống như đường tơ của nhện, kéo ngang hơi rộng. Nhưng rồi, chẳng hiểu tằm đã làm thế nào, những sợi tơ của tằm cuộn tròn quấn quanh thân tằm. Ổ kén hình bầu dục tượng thành, lúc đầu người chăn còn thấy mờ mờ thân tằm vàng nhạt nằm trong đó như thấy qua sương. Một ngày một đêm sau, không còn thấy thân tằm nữa, chỉ còn thấy kén tơ vàng óng như những dây tơ hồng trên các hàng rào dâm bụt ở vườn Huế, nhưng mảnh hơn nhiều, xốp, nhẹ, muốn ngắm mãi, ngẩn ngơ, đắm đuối, si mê như một gã phải lòng, phải bùa phải ngải thế nào ấy.

Tôi hỏi:

- Vậy tằm chết lúc nào?

Cô gái chăn tằm làng Sêu, tay thon thả mặt hơi rám nắng như các cô gái vùng dâu, lại cười.

Nếu không có bàn tay con người nhúng vào, để yên ổ kén thì sáu ngày sau, tằm lúc đó đã là con nhộng, nhộng hoá thành con ngài, con ngài cắn đứt ổ kén một lỗ nhỏ, chui khỏi ổ kén, bay ra ngoài trời. Con ngài cái mập hơn ngài đực vì ngài cái phải mang trong bụng một bầu trứng cái. Con người, chỉ có con người thôi, mới đủ sức sắm nhiều vai làm lắm trò trên gian thế, cho ngài đực và ngài cái phối với nhau. Ngài cái đẻ trứng. Người bán trứng tằm ở tận Thái Bình, Nam Định. Trứng tằm nở ra tằm con. Một vòng đời mới của tằm lại bắt đầu.

Tôi ngắt lời:

- Vậy tằm có chết đâu.

Cô gái làng Sêu:

- Tằm nhả tơ, làm kén. Tằm vùi thân trong kén hóa thành nhộng. Nhộng hóa thành ngài. Ngài đẻ trứng. Trứng nở ra tằm. Đó là những con tằm được người nuôi lại để bảo tồn nòi giống tằm. Nó không chết, nó hóa kiếp, hóa mãi, kiếp này đến kiếp khác.

Tôi lại ngắt lời:

- Vậy sao lại nói: con tằm đến thác vẫn còn vương tơ?

Cô gái làng Sêu:

- Nếu một lứa tằm mà cho sống hết, hóa thành ngài cả, ghép đực cái phối với nhau, đẻ trứng, nở ra tằm con thì làm gì có tơ?

Để bay ra khỏi kén, ngài cắn ổ kén một lỗ rất nhỏ, nhỏ bằng ngón tay út của trẻ con. Nhưng ghê gớm lắm, tạo hóa đã sắp đặt cả rồi, cái lỗ con bé tí ấy cắt vụn hết mọi đường tơ mà tằm đã thầm lặng nhả vòng quanh quấn lấy thân tằm. Mọi đường tơ bị đứt tiệt. Không sao có thể kéo được những sợi tơ dài để ta giăng ngang dọc, để ta cuốn vào suốt mà dệt.

Người chăn tằm phải cho kén vào nồi, một chiếc nồi đồng to tướng không quai, bắc lên bếp than cháy hực, sôi sùng sục. Nước sôi làm giỡ những sợi tơ quấn vào ổ kén, tưởng chừng kén là một cục tơ rối lùng nhùng, nhưng thực ra cả ổ kén chỉ có một đường tơ từ một miệng tằm, môi nhỏ xíu, nhả ra.

Người chăn tằm lấy đũa vê từng ổ kén, khơi ra mạch tơ, kéo tơ đưa ra guồng, rồi quay xa. Các sợi tơ dài, vàng óng cuốn mãi vào xa quay. Cũng có loại tơ trắng, trong như cước, nhưng rất nhỏ, đẹp hơn cước nhiều, nó là của thiên nhiên.

Tôi hỏi:

- Vậy thì muốn có tơ, tằm phải chết?

Cô gái làng Sêu:

- Phải, một số lớn tằm phải chết. Nước sôi làm giỡ tơ thì nước sôi cũng luộc chín tằm. Số lớn tằm ấy không chết, thì không có tơ.

Tằm ăn dâu, tiêu hóa dâu, ai mà hiểu hết sự vận động của cơ thể tằm, rồi biến dâu thành tơ ngay trong bụng tằm. Đến tuổi chín, chỉ đến tuổi chín mà thôi, tằm nhả tơ cuộn thành kén, kén tơ đẹp và mịn lạ lùng. Tuy là tơ đấy nhưng chưa thể gọi là tơ. Tơ cuốn thành kén phải được luộc chín trong nước sôi, sôi lục bục như những vạc dầu ở địa ngục, nhờ mấy ngón tay khéo vê đũa và cánh tay quay xa mềm mại, tơ mới được kéo ra, cuộn vào xa quay, mịn và chắc như tình người. Đến với cái chết, tằm ngâm mình trong cái chết ấy, cho tới khi tơ được rút hết. Tơ chưa gỡ hết, cái chết của tằm còn đó. Tơ gỡ hết, tằm trần trụi. Tôi không đi qua tôi nên tôi không để lại gì (2). Tằm đã đi qua suốt một đời nghiệt ngã. Cho nên tằm để lại. Tơ. Chỉ khi ấy tơ kén mới thành tơ nguyên liệu.

Cô gái làng Sêu lại cười. Hình như nụ cười chưa lúc nào tắt trên đôi môi hàm tiếu của cô.

- Con tằm ăn dâu xanh mà lại nhả ra tơ vàng mới giỏi chứ. Tằm ăn dâu mà lại nhả ra toàn dâu thì chả ai bỏ công mà nuôi tằm, phải không bác? – Cô gái làng Sêu bụm miệng cười, mắt đen và ướt: Ăn dâu mà nhả ra dâu thì kinh quá, ai mà gọi là tằm. Có là sâu róm.

*

*    *

Người nghệ sĩ lấy đời tằm mà tự ví. Tằm đằm mình trong nong lá dâu, thèm dâu, ăn rào rào, là để nhả tơ. Người nghệ sĩ khát nhân dân, đi vào nhân dân, sống cùng nhân dân, để học để hiểu để nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn của nhân dân, lòng dũng cảm thầm lặng của những người bình thường, qua đó mà nhận ra chính mình trong bão táp, chỉ vì sáng tác, để mà sáng tác, hướng tới một sự sáng tạo tưởng chừng chỉ mình nhận ra.

Những người trước đây xa lạ, không quen không biết, không họ không hàng, không láng giềng chòm xóm, tại sao vậy, lại có thể sống vì nhau và chết vì nhau? Người anh hùng, nào có muốn đi vào cái chết, nhưng lại sẵn sàng lao vào cái chết, sắc lạnh và bình thản. Người quay phim khao khát quay trực diện gương mặt của người chiến sĩ đang xung phong.Tại sao vậy?

Tại sao có thể cầm bút viết những lời ca ngợi thúc giục người lính trẻ như măng lao về phía trước trong lúc mình lại là một kẻ xó ró núp ở phía sau? Mình thành thật hay giả dối?

Có trải nghiệm nào lại không phải là trải nghiệm của chính lương tâm? Tằm chỉ ăn dâu sạch mà chín - mỗi vui buồn, đau khổ cùng nhân dân chỉ thông qua tự vấn mới trở thành máu thịt. Liệu có thể nói được tiếng nói tâm hồn của người cầm súng vì sự tồn vong của đất nước, nếu lòng ta khô quánh và dửng dưng trước nhân dân hàng ngày hy sinh và lam lũ? Liệu có thể nhả ra tơ mà trong lòng ta không hề có tơ? Liệu có thể sinh thêm cho đời một nhân vật đẹp làm mặn cuộc đời mà đời ta lại nhạt nhẽo, chưa từng là một con người thực của đời? Nhân vật tích cực nào lại không phải là một quá trình hoàn thiện, trong lúc bản thân ta lại không đấu tranh để hoàn thiện chính mình? Đoàn người đi qua để lại bóng. Con tàu đi qua để lại tiếng(3). Ta đi qua đời, liệu có để lại gì trong tâm khảm nhân dân? Không có nhân dân và cuộc sống anh hùng và bi tráng của nhân dân, liệu có ta ngày hôm nay không? Bao nhiêu câu hỏi, tự vấn ngày ngày. Lấy nhân dân làm tấm gương soi, tự phơi bày trần trụi chính mình trước trang viết, lòng trung thực ấy chỉ riêng mình mới nhận rõ, nhưng đó chính là dấu hiệu trưởng thành của nghệ thuật. Con tằm rứt ruột nhả tơ, người nghệ sĩ cày lên trang viết, liệu có đau khổ với đời và trăn trở?

*

*    *

Những ngày chống Nguyên Mông, nếu ông cha ta thua trận, không để lại cho ta hai tiếng Bạch Đằng? Cũng như thế, nếu trong thời đại này, ở Liên khu Năm này, nếu không để lại một Ba Gia, một Vạn Tường, một Pleime, một Đà Nẵng, một chiến khu Lê lì lợm và Bác Ái hiên ngang, một Trà Bồng gan góc, một Ngô Mây lấy thân mình làm vũ khí, một Buôn Ma Thuột mở đầu? Nếu Hà Nội khiếp nhược trước B52 và không lực Huê Kỳ, không để lại một Điện Biên Phủ trên không, đất nước ta thành lương tâm của thời đại, và nếu không sáng tạo thời cơ làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thu giang sơn về một mối?

Bởi vậy, chẳng riêng gì người nghệ sĩ, ai nấy cũng đều khao khát góp vào thắng trận. Cuộc góp vào trong khốc liệt ấy, nếu do kẻ thù mà ta ngã xuống, cũng như bao người ưu tú trong nhân dân ngã xuống, thế hệ nghệ sĩ thời ấy đã tự trả lời: Nếu ta chết đi, một giờ, một nửa giờ trước khi giành thắng lợi hoàn toàn cũng hạnh phúc lắm thay.

Không phải thời ấy nhân dân và những con người sáng tạo không nghĩ đến cái tôi. Cái tôi không thu mình trong mất mát mà hướng tới những người khác. Không phải không có những giờ yếu đuối, không phải lúc nào cũng vượt qua được dục vọng tầm thường. Cũng có người gục ngã sau những phút mềm lòng, trước những quyến rũ vật chất. Nhưng số đông, soi mình trước tấm gương nhân dân, đã tự vấn trước lương tâm vốn không ngớt giằng xé giữa cái đẹp cao cả và cái xấu tầm thường, đã vượt qua, kẻ thì chật vật, người thì thanh thản.

Không có những ngày đó, không sáng tạo vì những ngày đó, người nghệ sĩ chỉ trơ còi như những chóp núi trọc bị bào mòn mồ côi rừng xanh che phủ. Đau khổ cào sâu trán mà cầm bằng như không, ý chí ấy của nhân dân và lòng tự vấn, xiết hòn đá mài tranh đấu vào lương tâm, như trăng, đẹp thế, làm cho đêm lung linh.

Nhưng khác với tằm, hàng triệu con tằm, chỉ nhả được một thứ tơ, còn mấy trăm nghệ sĩ cùng đắm mình trong một không gian và thời gian, cùng “ăn” một thực tiễn, nhưng lại có mấy trăm tác phẩm sáng tạo khác nhau. Bởi lẽ, họ là người, lại là người đa cảm. Họ được sống trong một môi trường riêng, với một nhân dân cụ thể, một địa phương cụ thể với tất cả cái riêng của nó. Họ khát khao tìm ra cái riêng của chính mình trong nhân dân bao la và riêng đến thế. Khi đã tìm ra sự cao thượng của chính mình thì quyết không đánh mất sự cao thượng ấy. Không ai mơ giống ai. Mỗi sáng tác lại là một giấc mơ không ai từng mơ và cũng không bao giờ có lại. Họ tiếp xúc với hàng trăm người, mỗi người lại là một thế giới riêng. Im lặng tưởng chừng giống nhau bởi không có tiếng động. Nhưng đối với từng người, im lặng có âm thanh riêng, âm thanh của trái tim. Âm thanh của trái tim là âm thanh thực nhất, xao động nhất từ chính lòng ta dội về. Cái đáng sợ nhất của sáng tạo là lặp lại mình chứ đừng nói đến lặp lại người. Họ để lại dấu ấn riêng, tâm hồn và kiểu sống riêng, phong cách sáng tạo riêng từ cái vốn đời tích lũy riêng mà có, cũng như Liên khu Năm để lại dấu ấn riêng trong đời sống văn học chung của cả nước. Họ như tằm mà không phải là tằm, không chỉ là tằm. Họ mất đi là mất đi cái riêng của họ, mất đi mãi mãi, không thể thay thế được. Có người chỉ để lại một bức tranh, một bài nhạc, một bài thơ, một truyện ký, so với cái toàn thể thì quả là nhỏ nhoi, nhưng lại là của riêng họ, không hề lẫn lộn, thiếu nó, đời cảm thấy thiếu một cái gì. Họ chỉ là một. Nhưng đời lại ví họ với Ngân Hà: Ngân Hà ơi/ mi là chi mà thiếu mi nhân loại thấy cô đơn.

*

*    *

Tôi hỏi:

- Tằm chỉ ăn lá dâu thôi ư?

Cô gái làng Sêu:

- Đúng, tằm không ăn lá tạp, tằm chỉ ăn dâu. Mà phải dâu sạch. Dính một tí bẩn vào, như thuốc trừ sâu là nó không chịu được. Nó là người của thôn dã, của thiên nhiên. Một thoáng nước hoa cũng dị ứng.

- Dị ứng thì nó thế nào?

- Thế nào ạ? Nó ngắc ngư như một gã say rượu, đầu ngúc ngắc rồi lặng lẽ chết. Tằm cũng lắm bệnh cơ đấy. Bệnh trong. Thân tằm trong suốt, có màu xanh dâu. Ăn mấy cũng không chín. Nghĩa là ăn dâu vào mà không hóa được ra tơ. Bệnh mấu, còn gọi là lùa khua, do người chọn giống không kỹ. Người chọn giống cũng như ông làm tổ chức cán bộ. Bệnh mấu, tằm vẫn ăn dâu nhưng ăn vào mà không nhả được tơ, đầu tằm to dần và bóng như bôi mỡ. Những con tằm đó có cho lên nén, nơi tằm làm ổ thì chỉ kéo thành màng sang, ngang phè như nhện, không vo tròn được kén. Tằm bị bệnh mấu vô dụng lắm.

Cô gái làng Sêu bụm miệng cười, mắt lúng liếng:

- Bác ví người nghệ sĩ sáng tác cũng như thân tằm nhả tơ. Vậy người nghệ sĩ có bệnh trong, bệnh mấu không?

Nói xong, hình như sợ tôi phật ý, cô thêm ngay: thân tằm tội nghiệp, bác nhỉ?

Tôi ngước nhìn cô. Tằm muốn sống thì không có tơ. Phải chết thì mới có tơ. Mải mê tìm kiếm cái đẹp, chân lý và thánh thiện, cũng tội nghiệp lắm, một đời nghệ sĩ.

Qua trái đất, chỉ có thơ chừng ấy, cô đơn và dằn vặt, sự nghiệp đồ sộ hay mỏng tang, cũng chỉ chừng ấy.

Một đời ăn dâu sạch, mượn lá dâu xanh rứt ruột nhả ra tơ vàng. Ngỡ rằng có kén là xong nghĩa với đời. Nhưng làm sao mà hết được nghĩa, hết được nợ. Tằm lại quên cả thân, từ bỏ những mong ước thường tình, chấp nhận sự hy sinh lớn nhất, chết, cho kén kéo được thành tơ gửi theo dòng đời. Một ngàn năm một vạn năm/ Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ.

*

*    *

Tôi ngồi nhìn mủng kén, một màu vàng xao xuyến. Cô gái làng Sêu thả vào nồi nước đang sôi bùng từng nhúm kén. Mỗi ổ kén là một con tằm. Tằm chết, giống như mọi sinh vật nhỏ bé và mềm yếu. Cô gái vê đôi đũa, gỡ từ ổ kén một đường tơ mảnh. Một cô gái khác, ngồi lùi về phía bên kia, nhẹ nhàng quay xa. Trước lúc ấy, tơ có đó, cuộn thành kén mà tơ chưa cho người. Chỉ đến khi tằm chết, tơ được gỡ ra từng sợi dài, tơ mới đến với người. Tằm chết, từng lứa một, nhưng tơ thì còn, với nhân thế, với trần gian này, với dân tộc đẹp đẽ vì lương tâm và lòng cao thượng, vì lụa mượt mà và quyến rũ.

Trong đời biết bao nhiêu là cái đẹp. Khoảng khắc nào cũng có, nơi không gian gần và nơi không gian xa. Có lúc nào mà ta không nghe thấy người đời thốt lên: Ôi, đẹp quá! Bởi thế, cái đẹp là trường tồn. Nhưng hoa nở, hoa lại tàn. Mặt trời còn đó, vĩnh hằng. Song bình minh chỉ hiện ra trong một lát.

Cái đẹp trường tồn. Mà cái đẹp cũng mỏng mảnh. Sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ là làm cho cái đẹp mỏng mảnh ấy, bằng tác phẩm mà trở nên trường tồn.

Người xưa tự răn: lấy văn chương lập thân là điều tối hạ. Nhưng sao có lắm người nhờ văn chương mà hiện, mà nổi. Ui, đó là việc của nhân gian vốn lắm trò. Còn người nghệ sĩ? Nghệ sĩ Ngô Thị Liễu tâm sự rằng: Tôi theo đuổi tuồng như một cô nàng theo đuổi một mối tình với tất cả cái sôi nổi, tất cả sức mạnh bão tố của trái tim đang rực cháy lửa yêu đương. Văn chương là tự

thân.

Văn chương tối kỵ sự giả dối. Dùng văn chương mà lập thân thì làm sao che kín được giả dối dù bịt bưng giả dối ấy đến cỡ nào. Văn chương, vẫn vậy, lâu dài và thẳm sâu, không đi cùng với hoạn lộ. Đã chọn đường văn chương thì chớ nuối tiếc hoạn lộ, dẫu thời nào cũng trăm bề cám dỗ. Dùng văn chương mở ra hoạn lộ, nhưng hoạn lộ nào đi cùng với văn chương.

Vai hài trong chèo thường tếu táo: Đã làm quan thì chớ làm hề. Đã làm hề thì chớ làm quan. Làm quan mà diễn trò thì người đời tưởng diễn trò là nghề quan. Vừa diễn trò vừa làm quan, thì người đời lại tưởng nghề quan là nghề trò. Xưa nay vẫn vậy, chức quyền đem lại tiền tài và danh vọng, nhưng chức quyền danh vọng lẫn tiền tài mảy may không sinh ra lương tâm và đạo đức.

Cũng như danh vọng, cả danh nghĩa nữa, không sinh ra văn chương đích thực.

Nhưng con người, lại chuyện con người, vừa khát khao chân thành và cao thượng vừa tiềm ẩn những dục vọng bỗng chốc vụt hiện từ sự bưng bít lâu ngày. Mâu thuẫn thế. Cho nên ở cái xã hội vật chất đầy mồi nhử và lưỡi câu móc, đại thể là vậy, con người dễ bị phỉnh dụ. Người đời, cũng là chuyện người đời thôi, thường đem cái cao sang mà cuốn dỗ.

Tằm ăn dâu, nhả ra tơ. Nhả tơ chẳng phải vì dâu, vì tằm. Sứ mệnh của tằm, nếu muốn dùng từ ấy, là để nhả tơ. Để nhả tơ đó thôi.

Tằm ăn dâu, hồn nhiên và đắm đuối, như cậu bé bị cha mẹ bỏ đói, quẳng đâu đấy, lâu ngày không được ăn. Tằm nhả tơ cũng hồn nhiên và đắm đuối. Tằm vùi thân trong kén, bịt bùng, không cho ai thấy chuyện nhả tơ, vật vã hay không, làm sao biết, nhưng chắc là đẹp, đẹp như tơ. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.

Có thể ví: Đời là dâu. Những trang văn - đích thực -là tơ của đời. Đời nghệ sĩ đến ngày cuối ngang qua trái đất có còn vương tơ không? (4)

 Nguyễn Chí Trung

http://www.vannghequandoi.com.vn/-vn-xuoi/but-ky-phong-s/3845-vng-t.html

 Bài này rút từ cuốn Văn nghệ sĩ Liên khu Năm - Lý tưởng - nhân cách - sáng tạo - do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản nhân dịp Kỷ niệm 62 năm ngày Toàn quốc kháng chiến và 64 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam